ĐIỀU KIỆN GIAO HÀNG FOB (FREE ON BOARD) – INCOTERMS 2020
FOB – GIAO HÀNG TRÊN TÀU
BẢN DỊCH FOB INCOTERMS 2020 ICC
FREE ON BOARD (Cảng giao hàng quy định) Incoterms 2020
HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG
- Về phương thức vận tải: Điều kiện này sẽ được sử dụng cho vận tải biển và thủy nổi địa khi mà các bên giao hàng bằng việc đặt chúng lên trên con tàu được chỉ định. FOB sẽ không phù hợp khi hàng hóa được giao cho người chuyên chở trước khi hàng được đặt dọc mạn tàu, ví dụ hàng đóng trong container, mà thường là giao tại bên bãi ở cảng. Trong trường hợp như thể nên sử dụng điều kiện FCA.
- Chuyển giao hàng hóa và rủi ro (FOB – Free On Board): Giao hàng lên tàu có nghĩa là người bán giao hàng lên con tàu do người mua chỉ định tại cảng xếp hàng chỉ định hoặc mua lại hàng hóa đã được giao như vậy. Rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng của hàng hóa di chuyển khi hàng hóa được xếp lên tàu, và người mua chịu mọi chi phí kể từ thời điểm này trở đi.
Người bán, hoặc phải giao hàng lên trên tàu hoặc mua lại hàng hóa đã được giao như vậy. Từ “mua lại” ở đây áp dụng cho việc bán hàng nhiều lần trong quá trình vận chuyển (bán hàng theo chuỗi) rất phổ biến trong mua bán hàng nguyên liệu.
- Nghĩa vụ thông quan xuất khẩu/nhập khẩu: Điều kiện FOB yêu cầu người bán phải thông quan xuất khẩu cho hàng hóa, nếu cần. Tuy nhiên người bán không có nghĩa vụ phải thông quan nhập khẩu hoặc thông quan khi quá cảnh tại nước thứ ba mà hàng hóa phải đi qua, không phải trả thuế nhập khẩu hoặc chi phí làm thủ tục thông quan nhập khẩu.
A. NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI BÁN THEO ĐIỀU KIỆN FOB INCOTERM 2020
A1. Nghĩa vụ chung của người bán
Người bán phải cung cấp hàng hóa và hóa đơn thương mại phù hợp với hợp đồng mua bán và bất kì bằng chứng phù hợp mà có thể được đề cập đến trong hợp đồng.
Bất kỳ chứng từ nào cung cấp bởi người bán đều có thể ở dạng chứng từ giây truyền thống hoặc ở dạng điện tử nếu được các bên thỏa thuận hoặc tập quản quy định.
A2. Giao hàng
Người bán phải giao hàng bằng cách đặt hàng hóa lên con tàu do người mua chỉ định tại địa điểm xếp hàng, nếu có, do người mua chỉ định tại cảng xếp hàng chỉ định hoặc mua hàng hóa đã được giao như vậy. Trong cả hai trường hợp, người bán phải giao hàng vào ngày hoặc trong thời hạn đã thỏa thuận theo cách thức thông thường tại cảng.
Nếu người mua không chỉ rõ địa điểm xếp hàng cụ thể, người bán có thể lựa chọn 1 địa điểm phù hợp nhất tại cảng xếp hàng chỉ định. Nếu các bên thỏa thuận giao hàng trong một khoảng thời gian cụ thể, người mua có quyền lựa chọn ngày giao hàng trong khoảng thời gian đó.
A3. Chuyển giao rủi ro
Người bán chịu mọi rủi ro về tổn thất hay mất mát đối với hàng hóa đến khi hàng hóa được giao theo mục A2, trừ những trường hợp mất mát hay hư hỏng được để cập ở mục B3.
A4. Vận tải
Người bán không có nghĩa vụ với người mua về việc ký kết hợp đồng vận tải.
Tuy nhiên, người bán phải cung cấp cho người mua nếu người mua yêu cầu, với rủi ro và chi phí do người mua chịu, phải giúp đỡ người mua để lấy bất kỳ thông tin hay chứng từ cần thiết nào, kể cả thông tin an ninh mà người mua cần đề xuất khẩu hay tổ chức vận tải hàng hóa đến điểm đích.
Người bán có thể đồng ý giúp người mua hoặc không đồng ý, nhưng nếu đồng ý phải giúp người mua ký kết hợp đồng vận tải dựa trên những điều khoản thông thường phù hợp với loại hàng đó, mọi rủi ro và chi phí sẽ do người mua chịu.
A5. Bảo hiểm
Người bán không có nghĩa vụ với người mua về việc ký kết hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên, người bán phải cung cấp cho người mua nếu người mua yêu cầu và chịu rủi ro chi phí, những thông tin người mua cần để mua bảo hiểm.
A6. Chứng từ giao hàng/vận tải
Người bán, bằng chi phí của mình, phải cung cấp cho người mua những bằng chứng thông thường về việc hàng hóa đã được giao theo như mục A2.
Trừ khi bằng chứng này là chứng từ vận tái, người bán phải giúp đỡ người mua nếu người mua yêu cầu, với rủi ro và chi phí đo người mua chịu, lấy chứng từ vận tải cho người mua.
A7. Thông quan xuất khẩu/nhập khẩu
a) Về thông quan xuất khẩu
Nếu cần, người bán phải làm và chi trả mọi chi phí liên quan đến việc làm thủ tục hải quan xuất khẩu được quy định ở nước xuất khẩu như là:
- Giấy phép xuất khẩu;
- Kiểm tra an ninh với hàng hóa khi xuất khẩu;
- Giám định hàng hóa khi xuất khẩu; và
- Bất kỳ quy định pháp lý nào.
b) Hỗ trợ việc làm thủ tục nhập khẩu
Nếu cần, người bán phải hỗ trợ người mua khi người mua yêu câu, rủi ro và chi phí do người mua chịu để lấy các chứng từ/thông tin cần thiết cho việc làm thủ tục hải quan khi quá cảnh/nhập khẩu, bao gồm cả các thông tin an ninh và việc giám định hàng hóa, được quy định ở nước hàng hóa quá cảnh qua hoặc nước nhập khẩu.
A8. Kiểm tra – Đóng gói, bao bì – Ký mã hiệu
Người bán cần phải trả các chi phí về việc kiểm tra (như kiểm tra chất lượng, cân, đo, đếm) cần thiết để giao hàng theo quy định ở mục A2.
Người bán phải đóng gói hàng hóa và chịu chi phí về việc đó trừ khi thông lệ của ngành hàng quy định cụ thể hàng hóa được gửi đi không cần đóng gói. Người bán phải đóng gói và ký mã hiệu hàng hóa phù hợp với phương thức vận tải, trừ khi hai bên đã đồng ý cụ thể về cách đóng hàng và ký mã hiệu khi hợp đồng được ký kết.
A9 Phân chia chi phí
Người bán phải trả:
a) Toàn bộ mọi chi phí liên quan đến hàng hóa cho tới khi chúng được giao cho người mua theo mục A2, trừ những khoản do người mua trả theo mục B9;
b) Chi phí cung cấp bằng chứng cho người mua theo mục A6 rằng hàng hóa đã được giao;
c) Nếu cần, thông quan hải quan, nộp thuế xuất khẩu và bất kỳ chi phí nào khác có liên quan đến việc xuất khẩu theo như mục A7(a); và
d) Trả cho người mua tất cả các chi phí và phụ phí liên quan đến việc hỗ trợ người bán trong việc lấy chứng từ và thông tin cần thiết theo mục B7(a).
A10. Thông báo cho người mua
Người bán phải thông báo cho người mua bất kỳ thông tin nào cần thiết để tạo điều kiện cho người mua có thể nhận hàng theo như mục A2 hoặc việc tàu chuyên chở đã không nhận được hàng vào thời gian quy định.
B. NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI MUA THEO ĐIỀU KIỆN FOB INCOTERM 2020
B1. Nghĩa vụ chung của người mua
Người mua phải thanh toán tiền hàng như quy định trong hợp đồng mua bán.
Bất kỳ chứng từ nào cung cấp bởi người mua đều có thể ở dạng chứng từ giấy truyền thống hoặc ở dạng điện tử nếu được các bên thỏa thuận hoặc tập quán quy định.
B2. Nhận hàng
Người mua hàng phải nhận hàng khi hàng đã được giao theo mục A2.
B3. Chuyển giao rủi ro
Người mua hàng phải chịu mọi rủi ro liên quan đến việc mất mát hay hỏng hóc hàng hóa từ thời điểm hàng được giao theo mục A2.
Nếu:
a) Người mua không thông báo theo đúng quy định tại mục B10; hoặc
b) Con tàu do người mua chỉ định theo B10 không đến đúng hạn đề nhận hàng theo mục A2, hoặc không thể nhận hàng hoặc dừng việc xếp hàng trước thời gian được thông báo theo như mục B10.
Với điều kiện hàng hóa được xác định là hàng hóa của hợp đồng, thì người mua phải chịu mọi rủi ro mất mát hoặc thiệt hại về hàng hóa kế từ ngày quy định hoặc ngày cuối cùng của thời hạn quy định cho việc giao hàng.
B4. Vận tải
Người mua tự ký kết hợp đồng vận tải hoặc sắp xếp việc vận tải với chi phí do mình chịu để vận chuyển hàng hóa từ khi nhận hàng, trừ khi hợp đồng vận chuyển được kí kết bởi người mua theo như mục A4.
B5. Bảo hiểm
Người mua không có nghĩa vụ với người bán về việc ký kết hợp đồng bảo hiểm.
B6. Bằng chứng của việc giao hàng
Người mua phải chấp nhận các bằng chứng, chứng từ giao hàng cung cấp theo mục A6.
B7. Thông quan xuất khẩu/nhập khẩu
a) Hỗ trợ việc thông quan xuất khẩu
Nếu cần, người mua phải hỗ trợ người bán khi người bán yêu cầu, do người bán chịu rủi ro và chi phí, lấy các chứng từ/thông tin liên quan đến việc thông quan xuất khẩu, kể cả các thông tin an ninh hay giám định hàng hóa trước khi xuất khẩu được quy định bởi nước xuất khẩu.
b) Thông quan nhập khẩu
Nếu cần, người mua phải làm và trả các chi phí liên quan đến việc thông quan được quy định tại nước quá cảnh và nước nhập khẩu, như là:
- Giấy phép nhập khẩu hoặc bất kỳ giấy phép nào cần thiết cho việc quá cành;
- Kiểm tra an ninh cho việc nhập khẩu và quá cảnh;
- Giám định hàng hóa;
- Và bất kỳ quy định pháp lý nào.
B8. Kiểm tra – Đóng gói, bao bì – Ký mã hiệu
Người mua không có nghĩa vụ gì với người bán.
B9. Phân chia chi phí
Người mua phải:
a) Trả mọi chi phí phát sinh liên quan đến hàng hóa từ thời điểm hàng được giao theo mục A2, từ các chi phí người bán trả theo mục A9;
b) Hoàn trả tất cả chi phí và lệ phí mà người bán đã chi ra khi giúp người mua theo mục A4, A5, A6 hoặc A7(b);
c) Nếu có quy định, trả tất cả các thứ thuế, lệ phí và các chi phí khác cũng như chi phí làm thủ tục hải quan để quá cảnh và nhập khẩu theo như mục B7(b); v
d) Trả mọi chi phí phát sinh vì các lý do sau:
(i) người mua không thông báo theo đúng quy định tại mục B10; hoặc
(ii) con tàu do người mua chỉ định theo B10 không đến đúng hạn hoặc không thể nhận hàng hoặc dừng việc xếp hàng trước thời gian được thông báo theo như mục B10.
Với điều kiện hàng hóa được xác định là hàng hóa của hợp đồng.
B10. Thông báo cho người bán
Người mua phải thông báo cho người bán về tên tàu, địa điểm xếp hàng và, trong trường hợp cần thiết, thời gian giao hàng đã chọn trong khoảng thời gian giao hàng thỏa thuận.
BÌNH GIẢI BỔ SUNG VỀ NHÓM F TRONG INCOTERM
FOB thuộc nhóm F gồm ba điều kiện:
- FCA: Giao hàng cho người chuyên chở
- FAS: Giao hàng dọc mạn tàu
- FOB: Giao hàng trên tàu
Nhóm F trong FOB (chữ cái đầu tiên của từ “Free”) có thể hiểu là người bán được “Giải thoát trách nhiệm” giao hàng và “Không phải chịu chi phí” sau khi giao hàng trên tàu (On Board) tại cảng bốc hàng quy định.
Các điều kiện nhóm F đều quy định nghĩa vụ ký hợp đồng vận tải là nghĩa vụ của người mua vì người bán chỉ có thể giao hàng khi người mua đã chỉ định người chuyên chở hoặc con tàu nhận hàng. Nếu người mua có thể ký hợp đồng vận tải với giá cước ưu đãi hoặc điều kiện thuận lợi thì người mua nên sử dụng các điều kiện nhóm F để giành quyền thu xếp hợp đồng vận tải.
1. Phân biệt các quy tắc nhóm F
Trong khi FCA có thể được sử dụng cho bất cứ phương thức vận tải nào, FAS và FOB chỉ có thể được sử dụng khi hàng hóa được vận chuyển bằng đường biển hoặc đường thủy nội địa. Sự khác biệt giữa FAS và FOB chỉ là nghĩa vụ bốc hàng lên tàu để chuyên chở. FAS có nghĩa là hàng hóa phải được đặt dọc mạn tàu và FOB là hàng hóa phải được đặt dọc mạn tàu và FOB là hàng hóa phải được đặt trên tàu khi giao hàng.
Bảng: Phân biệt các quy tắc nhóm F theo nghĩa vụ của người bán
Nghĩa vụ của người bán | Bốc hàng tại cơ sở của người bán | Vận chuyển nội địa tới điểm tập kết/ cảng bốc | Bốc hàng lên tàu tại cảng bốc | Tổng thể nghĩa vụ của người bán |
FCA cơ sở của người bán | X | EXW + Bốc hàng + Xuất khẩu | ||
FCA điểm tập kết/cảng bốc | X | X | EXW + Vận chuyển nội địa + Xuất khẩu | |
FAS | X | X | FCA + Vận chuyển nội địa | |
FOB | X | X | X | FAS + Bốc hàng |
2. Sự tương phản giữa FOB và DAP
FOB có thể xem như hình ảnh phản chiếu của DES (Incoterms 2000) hay DAP cảng đến quy định. Thật vậy, người bán FOB giao hàng trên tàu tại cảng bốc thì người bán DES hoặc DAP giao hàng trên tàu tại cảng dỡ hàng quy định.
3. Vận chuyển nội địa
Theo các điều kiện F, người bán phải thu xếp bất cứ việc vận chuyển nội địa nào để đưa hàng đến nơi quy định để giao hàng hoá cho người chuyên chở, trách nhiệm của người mua là thu xếp và thanh toán cho việc vận chuyển chính. Các quy tắc F không đề cập bất cứ điều gì về việc vận chuyển nội địa, vì không cần quy định cách người bán có thể đưa hàng hóa đến nơi giao hàng hóa cho người chuyên chở.
4. Thời gian và địa điểm giao hàng
Do người mua nhóm F chỉ định người chuyên chở hoặc con tàu đến để nhận hàng nên người mua có quyền lựa chọn thời gian và địa điểm giao hàng cụ thể trong thời hạn giao hàng và tại nơi giao hàng hoặc cảng bốc hàng quy định trong hợp đồng. Người mua thực hiện quyền lựa chọn đó bằng việc thông báo cho người bán trước khi giao hàng.
Điều này thường dẫn tới những bất lợi cho người bán. Người bán có thế gặp khó khăn trong việc chuẩn bị hàng để giao nếu thời gian giao hàng quá sớm, hoặc người bán phải chịu thêm chi phí lưu kho bãi tại nơi giao hàng nếu thời gian giao hàng quá muộn. Bên cạnh đó, nếu địa điểm giao hàng không gần với nơi tập kết hàng, người bán có thể tốn thêm chi phí, thời gian và chịu thêm rủi ro của hàng hóa trong quá trình vận chuyển nội địa để đưa hàng tới địa điểm do người mua chọn. Người bán cần giảm thiểu bất lợi cho mình bằng việc quy định càng chính xác càng tốt thời gian và địa điểm giao hàng.
5. Chỉ định phương tiện vận tải
Người bán theo một điều kiện nhóm F chỉ có thể giao hàng khi người mua đã hoàn thành nghĩa vụ chỉ định phương tiện vận tải. Do đó, việc chỉ định phương tiện vận tải trong một hợp đồng nhóm F được xem như là một điều kiện cơ bản của hợp đồng. Nếu người mua vi phạm nghĩa vụ đó, tức là người mua không chỉ định hoặc chỉ định một cách chậm trễ, hoặc phương tiện vận tải đó không nhận được hàng tại nơi quy định, người bán có quyền yêu cầu người mua phải chịu toàn bộ chi phí và rủi ro phát sinh liên quan với điều kiện là hàng đã được cá biệt hóa một cách thích hợp.
Nếu phương tiện vận tải do người mua chỉ định vì lý do nào đó không đến được địa điểm giao hàng, người mua có nghĩa vụ sắp xếp phương tiện vận tải thay thế và phải chịu chi phí cho việc này. Người mua chỉ có thể chỉ định phương tiện vận tải thay thế trong thời hạn mà hợp đồng quy định, hoặc trong thời hạn hợp lý nếu hợp đồng không quy định.
Những thiệt hại mà người bán có thể đòi bồi thường từ người mua phí lưu kho bãi, bảo quản hàng hóa, phí bảo hiểm cho đến khi tàu thay thế do người mua chỉ định đến. Nếu người mua không chỉ định được phương tiện vận tải thì thiệt hại được tính bằng mức chênh lệch giữa trị giá hợp đồng và giá của hàng hóa vào ngày vi phạm hợp đồng. Nếu hàng không xuất khẩu được và người bán phải bán hàng tại thị trường trong nước thì người mua phải bồi thường mức chênh lệch giữa giá hợp đồng và giá mà người bán nhận được tại thị trường nội địa. Người bán phải khấu trừ giá trị của hàng hóa từ bất cứ thiệt hại nào mà mình phải gánh chịu. Số tiền trừ đi là bao nhiêu còn tùy thuộc vào việc hàng hóa có tiêu thụ được hay không hoặc hàng hóa có phù hợp với quy cách mà hợp đồng đã quy định hay không.
Trong trường hợp hàng hóa không thế xác định được giá trị thị trường vì hàng được sản xuất theo quy cách riêng của người mua, người bán có quyền yêu cầu người mua thanh toán toàn bộ tiền hàng bằng một điều khoản quy định tiền hàng phải được thanh toán vào một ngày cố định cho dù phương tiện vận tải phù hợp không được người mua chỉ định.
Nếu trong quá trình thực hiện hợp đồng, người bán đã tỏ ra không muốn giao hàng mặc dù người mua đã đôn đốc nhiều lần, thì người mua sẽ không bắt buộc phải thuê phương tiện vận tải, vì làm như vậy sẽ vô ích và làm thiệt hại thêm cho người mua.
Ví dụ: Trong hợp đồng FOB quy định người bán phải thông báo cho người mua về việc sẵn sàng giao hàng trong thời hạn nhất định trước ngày giao hàng, nếu hết thời hạn đó mà người mua vẫn chưa nhận được thông báo này của người bán thì người mua có quyền suy đoán là người bán đã không muốn hoặc không thế giao hàng. Khi đó người mua cũng không bắt buộc phải thuê tàu và có quyền đòi bồi thường thiệt hại do người bán không giao hàng.
6. Dịch vụ bổ sung của người bán theo nhóm F
Nghĩa vụ ký hợp đồng vận tải là sự khác biệt cơ bản giữa nhóm F và nhóm C, tuy nhiên, sự khác biệt này đôi khi bị làm mờ trong thực tế vì người bán vẫn sử dụng điều kiện nhóm F với dịch vụ bổ sung cho người mua là thu xếp việc vận chuyển hàng hóa theo những điều kiện thông thường nhưng với rủi ro và chi phí của người mua.
Trong thực tế, người bán theo nhóm F có thể làm việc này khi sự lựa chọn ký hợp đồng vận tải là ít quan trọng đối với người mua. Việc này thường hay xảy ra khi chỉ có một sự lựa chọn duy nhất do địa điểm hoặc tính chất của hàng hóa hoặc khi cước phí là không thay đối với các hãng vận chuyển. Ví dụ, trong vận tải đường biển, khi giữa cảng bốc hàng và cảng đến có một tuyến tàu chợ hoạt động thường xuyên, người bán FAS hoặc FOB thường lưu khoang tàu chợ thay cho người mua.
Khi người bán thực hiện dịch vụ bổ sung này cho người mua, để thuận tiện, người bán nên thỏa thuận với người chuyên chở với điều kiện cước phí sẽ được người mua trả sau tại nơi đến. Trong trường hợp người chuyên chở đòi hỏi cước phí phải được người bán trả trước, người bán phải lập ra hai hóa đơn đòi tiền người mua, một hóa đơn về tiền hàng theo điều kiện thương mại và một hóa đơn về cước phí mà người bán đã trả. Người bán có thể tính thêm lãi suất kể từ thời điểm người bán trả cước phí cho người chuyên chở đến thời điểm người mua phải hoàn trả lại cước phí cho người bán.
Trong bất cứ trường hợp nào, người bán theo điều kiện F được yêu cầu, hoặc tự nguyện ký hợp đồng vận tải để chuyên chở hàng hóa, người mua vẫn luôn phải chịu rủi ro về các tình huống không lường trước, ví dụ như không có phương tiện vận tải hoặc phương tiện vận tải không đến đúng hạn,..
7. Phí bốc hàng và cước phí chuyên chở
Trong vận tải đường biển hoặc đường thủy, hàng hóa có thể được chuyên chở bằng tàu chợ (Liner) hoặc theo hợp đồng thuê tàu chuyến (C/P). Nếu hàng hóa được vận chuyển bằng tàu chợ, chi phí bốc và dỡ hàng đã được đưa vào cước phí. Trong khi đó nếu hàng hóa được vận chuyển theo hợp đồng thuê tàu chuyển, phí bốc và dỡ hàng đã được tính trong cước phí chuyên chở hay chưa phụ thuộc vào điều kiện cước phí trong hợp đồng thuê tàu chuyến. Phí bốc hàng có được tính trong cước phí hay không sẽ liên quan đến lựa chọn điều kiện FAS hay FOB phù hợp hơn.
Nếu người mua dự định vận chuyển hàng theo các tuyến tàu chợ chạy định kỳ hoặc theo hợp đồng thuê tàu chuyến (C/P) ký kết theo điều kiện tàu chợ (Liner Terms) hoặc Phí bốc hàng theo điều kiện tàu chợ (Liner In). Trong những trường hợp này, phí bốc hàng đã được đưa vào cước phí, mà người mua là người trả cước phí, do đó sử dụng FAS phù hợp hơn FOB.
Trường hợp người mua ký hợp đồng thuê tàu chuyến (C/P) để chuyên chở hàng theo điều kiện Miễn phí bốc hàng (FI), Miễn phí bốc và san xếp hàng (FIST) hoặc Miễn phí bốc và dỡ hàng (FIO), người chuyên chở được miễn phí bốc hàng tại cảng bốc nên người bán phải chịu phí bốc hàng. Khi đó nên lựa chọn FOB phù hợp hơn FAS.
Bảng: Quy tắc nhóm F và phí bốc hàng được/ không được tính trong cước phí
Phí bốc hàng | Vận chuyển | Sử dụng điều kiện thương mại |
Tính trong cước phí | Mọi phương thức | FCA giao ngoài cơ sở của người bán |
Tàu chợ
Hợp đồng thuê tàu chuyến Liner Terms/Liner In |
FAS
FOB + người mua chịu phí bốc hàng |
|
Không tính trong cước phí | Mọi phương thức | FCA giao tại cơ sở của người bán |
Hợp đồng thuê tàu chuyến FI/FIST/FIO | FOB + người bán chịu phí bốc hàng |
8. Yêu cầu an ninh
Mặc dù người bán theo nhóm F không có nghĩa vụ ký hợp đồng vận tải, người bán vẫn phải đáp ứng bất cứ yêu cầu ninh nào liên quan đến vận chuyển mà người mua thu xếp, với điều kiện người mua đã cung cấp thông tin cho người bán. Việc cung cấp thông tin có thể bằng những quy định trong hợp đồng hoặc bằng thông báo của người mua cho người bán trước khi giao hàng. Nếu người mua cung cấp thông tin cho người bán bằng cách gửi thông báo, người bán cũng nên quy định trong hợp đồng về nghĩa vụ thông báo này, để đảm bảo có thể đáp ứng kịp thời những yêu cầu an ninh đó.
9. Chứng từ giao hàng và Chứng từ vận tải
Người bán nhóm F phải chịu phí tôn cung cấp cho người mua bằng chứng thường lệ về việc giao hàng. Bằng chứng thường lệ đó có thể không phải là chứng từ vận tải, mà chỉ là chứng từ xác nhận đã nhận hàng từ người bán. Nếu người mua yêu cầu người bán phải cung cấp chứng từ vận tải, người bán có thể giúp người mua đổi bằng chứng thường lệ đó lấy chứng từ vận tải. Tuy nhiên, chi phí và rủi ro để lấy được chứng từ vận tải do người mua chịu.
Mặc dù theo quy tắc nhóm F, người mua phải thu xếp và trả cước phí chuyên chở (nghĩa là người mua ký hợp đồng trực tiếp với người chuyên chở), người chuyên chở vẫn có thể phát hành chứng từ vận tải cho người bán để chứng minh rằng người bán đã giao hàng cho người chuyên chở. Trong trường hợp này, chứng từ vận tải sẽ vừa là bằng chứng của hợp đồng vận tải và vừa là bằng chứng về việc giao hàng của người ban cho người chuyên chở.
Tuy nhiên, nếu người bán không thể lấy được chứng từ vận tải từ người chuyên chở, thì người bán chỉ cần lấy được bất cứ bằng chứng nào để chứng minh là mình đã giao hàng cho người chuyên chở. Vì đứng ở góc độ pháp lý, chính người mua (người ký hợp đồng với người chuyên chở) là người chịu trách nhiệm lấy được chứng từ vận tải từ người chuyên chở để người mua có thể nhận hàng và khiếu nại về hàng hóa tại cảng đến, chứ không phải là người bán. Trong nhiều trường hợp, người chuyên chở không phát hành chứng từ vận tải với lý do người mua chưa hoàn thành nghĩa vụ đối với họ theo hợp đồng vận tải (chẳng hạn như chưa trả một phần hoặc toàn bộ cước phí theo như hợp đồng vận tải), những rủi ro đó người mua phải gánh chịu.
10. Nghĩa vụ thông báo
Người mua theo nhóm F được quyền lựa chọn người chuyên chở cũng như thời gian, địa điểm giao hàng, trừ khi người mua đã ủy quyền cho người bán thu xếp việc vận chuyển. Nếu hợp đồng theo nhóm F không có quy định về nghĩa vụ thông báo của người mua trước khi giao hàng, điều này gây cho người bán những khó khăn nhất định. Trong thời hạn giao hàng được quy định trong hợp đồng, vào bất kỳ lúc nào người mua cũng có quyền yêu cầu người bán phải giao hàng nếu như người mua đã chỉ định phương tiện vận tải đến nhận hàng. Do đó trong thời hạn giao hàng mà hợp đồng qui định, người bán phải luôn sẵn sàng giao hàng bất cứ lúc nào khi nhận được thông báo của người mua về tên phương tiện vận tải, thời gian và địa điểm giao hàng.
Vì vậy, trong hợp đồng người bán cân quy định rõ ràng thời hạn người mua phải gửi cho người bán thông báo về phương tiện vận tải đã chỉ định, để người bán có thể chuẩn hi hàng hóa. Nghĩa vụ gửi thông báo như vậy được xem là một điều kiện cơ bản, do đó nếu người mua vi phạm, người bán có quyền từ chối nghĩa vụ giao hàng của mình.
Trường hợp người mua đã thông báo địa điểm giao hàng nhưng sau đó muốn thay đổi sang địa điểm khác, người bán không có nghĩa vụ phải trả chi phí di chuyển hàng hóa đến một địa điểm giao hàng mới, miễn là người bán đã hành động phù hợp với các chi thị đầu tiên của người mua và có quyền cho rằng thông báo mới của người mua đã chậm trễ.
Trong thực tiễn sử dụng nhóm F, người bán có thể thu xếp việc vận chuyển thay cho người mua. Nếu các bên thỏa thuận nghĩa vụ bổ sung của người bán như vậy, hợp đồng cần qui định nghĩa vụ thông báo của người mua cho người bán những thông tin cần thiết khi người mua muốn nhờ người bán ký hợp đồng vận tải. Tuy nhiên người bán có quyền từ chối việc này và phải thông báo sớm cho người mua biết. Vì vậy trong hợp đồng nên quy định thời hạn thông báo này để người mua có thể kịp thu xếp việc vận chuyển hàng hóa.
Người bán theo nhóm F phải thông báo cho người mua du sớm những chi tiết về việc giao hàng, trên cơ sở đó người mua có thể tiến hành mua bảo hiểm cho hàng hoá để tránh những tổn thất về hàng hoá trong quá trình chuyên chở. Trong Incoterms không chỉ rõ hậu quả trong trường hợp không có thông báo từ phía người bán, do đó người mua cần quy định nghĩa vụ này của người bán trong hợp đồng mua bán. Khi đó, việc người bán không thông báo là một sự vi phạm hợp đồng, và người bán có thể bị quy trách nhiệm theo như luật áp dụng đối với hợp đồng quy định.
Khi mua bán hàng hóa với số lượng lớn, trong hợp đồng thường quy định số lượng hàng hóa có dung sai. Thông thường, người mua giành được quyền chọn dung sai về số lượng với lý do người mua chịu trách nhiệm và chi phí thuê phương tiện vận tải để chuyên chở hàng hóa. Nếu không có quy định về thông báo của người mua về số lượng này cho người bán đủ sớm, người bán hoàn toàn bị động trong việc chuẩn bị số lượng hàng hóa để giao.
Nếu trong hợp đồng quy định người bán có quyền chọn dung sai về số lượng hàng hóa, người mua cần quy định trong hợp đồng mua bán về nghĩa vụ thông báo sẵn sàng giao hàng của người bán đối với số lượng hàng mà người bán quyết định giao. Trên cơ sở đó người mua chỉ định phương tiện vận tải thích hợp để chuyên chở. Để ràng buộc nghĩa vụ thông báo này của người bán, người mua nên quy định nếu người bán vi phạm nghĩa vụ thông báo, người bán phải chịu mọi rủi ro về mất mát hay hư hỏng hàng hóa và mọi chi phí phát sinh.
11. Di chuyển rủi ro theo FOB
Theo truyền thống, điểm chuyển rủi ro từ người bán sang người mua trong điều kiện FOB là lan can tàu tại cảng bốc hàng. Việc lấy lan can tàu trong điều kiện FOB là điểm để phân chia rủi ro giữa người bán và người mua đã bị chỉ trích là không phản ánh những gì thực sự diễn ra tại các cảng. Rủi ro xảy ra đối với hàng hóa trong quá trình bốc hàng qua lan can tàu sẽ được phân chia như thế nào giữa người bán và người mua? Phải chăng là nếu hàng rơi ra ngoài con tàu (tức chưa qua lan can tàu) sẽ do người bán chịu, còn nếu rơi vào trong con tàu (tức đã qua lan can tàu) sẽ do người mua chịu?
Trong vụ tranh chấp giữa Pyrene Co Ltd và Scindia Steam Navigation Co từ năm 1954 của một tòa án Anh, một phán xét đã nói: “Chỉ có luật sư nào sốt sắng nhất mới có thể bằng lòng ngắm cảnh các trách nhiệm đang chuyển từ bên nọ sang bên kia một cách thô thiển, trong khi khối hàng đang di động trên đỉnh cột cấu qua đường vuông góc tưởng tượng đứng lên từ lan can tàu” 31.
Trong những tình huống như vậy, rủi ro thường sẽ thuộc về bên phải trả phí bốc hàng và phải thuê người thực hiện dịch vụ bốc hàng lên tàu. Điều này còn tùy thuộc vào tập quán đặc thù của ngành hàng và của cảng bốc hàng. Ví dụ, tại cảng Stockholm, nếu những sản phẩm gỗ được bán theo điều kiện “FOB Stockholm”, người mua phải chịu phí bốc hàng lên tàu; theo thông lệ buôn bán này giao hàng FOB được biến đổi thành giao hàng FAS.” Nếu cũng không có tập quán riêng biệt não liên quan, người bán sẽ phải chịu theo đúng nghĩa của cụm từ “Free On Board” (Giao Trên Tàu).
Kể từ Incoterms 2010, cụm từ “passed the ship’s rail” (qua lan can tàu) đã được thay bằng “on board the vessel, (trên tàu) để thống nhất giữa việc phân chia rủi ro và chi phí. Nếu hàng hóa bị rơi trong quá trình bốc hàng và nằm trên boong gây thiệt hại, điều này sẽ được coi là rủi ro cho người bán, vì việc đặt hàng hóa lên tàu không dự tính một quy trình dẫn đến thiệt hại. Tuy nhiên, nếu hàng hóa được coi là đã ‘trên tàu’, rủi ro sẽ do người mua chịu.” Tuy nhiên, cũng như trước đây, điểm cụ thể phân chia rủi ro còn phụ thuộc vào tập quán và thực tiễn trong ngành buôn bán và tại cảng bốc hàng.
Nếu cả hai bên đều biết về tập quán tại cảng bốc hàng thì không có khó khăn gì xảy ra. Nhưng thường thì người mua không biết về tập quán của cảng bốc hàng ở nước người bán và chỉ sau đó mới phát hiện ra những tập quán này là bất lợi cho mình. Vì lý do đó, trước khi ký hợp đồng mua bán, người mua FOB cần phải tìm hiểu rõ xem cảng bốc hàng có tập quán riêng biệt nào hay không, nếu có thì cần xem xét vấn đề này khi đàm phán hợp đồng mua bán về giá cả hàng hóa.
12. Thay thế FOB bằng FCA
Như đã lưu ý, nếu việc giao hàng bằng container kê cả đường biển và giao hàng trong các phương thức vận tải khác không phải đường biển, FOB không phù hợp mà phải thay thế bằng FCA. Chỉ nên sử dụng FOB trong những trường hợp giao hàng bằng đường biển không sử dụng container bằng cách:
(a) được bốc bằng cần cẩu lên trên tàu, hoặc
(b) được bơm lên tàu qua các vòi bơm đối với hàng lòng, hoặc
(c) được truyền từ các silo (bồn chứa) lên tàu đối với số lượng lớn hàng rời.
Trong tất cả các trường hợp khác, FOB không nên được sử dụng mà nên thay bằng FCA ghi kèm nơi hàng hoá được giao để vận chuyển.
13. Thông quan quá cảnh và nhập khẩu
Để nhập khẩu hàng hóa hoặc để quá cảnh một nước thứ ba (nếu cần thiết) người mua cần phải có những chứng từ nhất định để hoàn thành thủ tục theo quy định của nước nhập khẩu và nước quá cảnh. Những chứng từ đó thông thường là giấy chứng nhận xuất xứ (C/O), hóa đơn lãnh sự (CI), …
Nếu người mua yêu cầu, người bán sẽ giúp đỡ người mua để xin được những chứng từ hoặc thông báo điện tử tương đương đó được ký phát hoặc chuyển tại nước gửi hàng hoặc nước xuất xứ. Theo Incoterms chi phí để lấy được các chứng từ này người mua phải chịu. Tuy nhiên vấn đề này cũng có thể gây tranh chấp, vì người mua có thể cho rằng những phí tổn và chi phí này là những chi phí trước khi gửi hàng (pre- shipment charges) và người bán có nghĩa vụ cung cấp các chứng từ đó trong bộ chứng từ thanh toán, do đó sẽ phải do người bán chịu. Để tránh tranh chấp, các bên nên qui định nghĩa vụ này trong hợp đồng, và người bán có thể tính chi phí này vào trong giá FOB của hợp đồng.
Kết luận với nhóm F
– Hợp đồng cần làm rõ nơi giao hàng theo FCA có phải là cơ sở của người bán hay không.
– Sử dụng FCA thay cho FAS và FOB khi giao hàng trong container hoặc bằng các phương thức vận tải không phải đường biển.
– Người mua FOB cần tìm hiểu tập quán trong ngành buôn bán và tại cảng bốc hàng.
– Người bán cần cá biệt hóa hàng hóa trước khi giao hàng.
Tranh chấp liên quan điều kiện FOB
Tranh chấp về thời gian tàu đến theo điều kiện FOB
Công ty Việt Nam ký hợp đồng xuất khẩu một lỗ gạo cho một công ty Đài Loan theo điều kiện FOB cảng Quy Nhơn. Công ty Đài Loan mua hàng để bán sang Philipin nên thuê tàu của một công ty vận tải ở Quy Nhơn để chở hàng từ cảng Quy Nhơn tới Philipin.
Ba ngày trước ngày giao hàng, Người mua thông báo tàu đang chạy từ Malaysia đến cảng Quy Nhơn và đề nghị Người bán tập kết hàng ra cảng. Nhưng con tàu đó chạy gần tới Thành phố Hồ Chí Minh thì gặp sự cố phải đưa vào đà tàu để sửa chữa. Hãng vận chuyển cũng không kiếm được tàu thay thế. Người mua đề nghị Người bán cho phép Người mua tìm tàu khác thay thế nhưng người bán không đồng ý.
Đến ngày giao hàng, Người bán vận chuyển và gửi hàng vào kho tại cảng Quy Nhơn. Người bán thông báo cho Người mua về việc tàu không đến nhận hàng và hàng hóa đang được lưu kho tại cảng Quy Nhơn. Người bán cho rằng mình đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng và đề nghị Người mua thanh toán tiền hàng. Người mua đề nghị trả tiền phạt nhưng Người bán không chấp nhận. Người bán kiện Người mua ra tòa án.
Xét xử
Tòa án tuyên bố bên Người bán đã hoàn thành xong nghĩa vụ giao hàng vì đã gửi hàng vào kho tại cảng Quy Nhơn và thông báo cho Người mua. Hàng của Người mua đã được tách biệt và Người mua đã chỉ định tàu đến không đúng thời hạn mà Hợp đồng qui định cũng như thời hạn mà Người mua đã thông báo. Lô hàng đó là của Người mua và Người mua phải thanh toán tiền hàng theo Hợp đồng cho Người bán.
Bình luận
Người mua FOB phải chịu rủi ro và chi phí phát sinh liên đến hàng hóa nếu con tàu do người mua chỉ định không đến đúng hạn theo qui định trong hợp đồng hoặc theo thông báo của người mua. Tuy nhiên, muốn chuyển những rủi ro và chi phí phát sinh này cho người mua, người bán phải cá biệt hóa hàng hóa để phân biệt lô hàng dự định giao cho người mua với những lô hàng cùng loại khác của người bán. Cách đơn giản nhất mà người bán có thể làm là lưu kho hàng hóa tại một kho độc lập với người bán, và thông báo cho người mua.
Tranh chấp về cấp chứng thư giám định tại cảng bốc theo hợp đông FOB
Năm 1994, Công ty LT ở Thành phố HCM ký hợp đồng bản cho Công ty CSDC ở Iran 30.000 tấn gạo 5% tâm, giá 235 USD/ tấn FOB cảng Thành phố Hồ Chí Minh, thanh toán bằng LC không huỷ ngang trả tiền ngay, ký quỹ 5% trị giá hợp đồng và giao hàng làm 2 chuyến. Việc giám định chất lượng và số lượng tại cảng bốc do Supervise Vietnam (Công ty liên doanh giữa SGS và Vinacontrol) cùng đại diện của Người mua thực hiện.
Ngày 26/ 6, Người bán tiến hành giao chuyến đầu tiên lên tàu Iran Sab. Supervise Vietnam cử giám định viên cùng 2 đại diện của Người mua giám sát chất lượng và số lượng từ quá trình chuẩn bị gạo ở kho, nhà máy xay xát cho đến khi hàng lên tàu.
Ngày 01/7, do trời mưa và tàu đóng nắp hầm hàng không kín nên bị nước mưa rò rỉ làm ướt gạo xếp trong hầm số 2 và số 4.
Tàu phải chịu trách nhiệm và phối hợp cùng với người bảo hiểm của họ (P&I Club) mà đại diện là Bảo Việt Thành phố Hồ Chí Minh bốc hàng ướt ra khỏi tàu với số lượng là 169 tấn tịnh.
Từ 5/ 7 đến 19/ 7, thuyền trưởng tàu đã yêu cầu Bảo Việt thuê công nhân bốc 4.351 bao (218,2 tấn) lên bờ, sau đó phân loại và cho bốc trở lại tàu 980 bao (49,15 tấn).
Sau khi bốc hàng lên tàu là 15.187 tấn tịnh, 15.232,5 tấn cả bì, ngày 01/ 8, tàu đã ký Biên lai thuyền phó (M/R) xác nhận số gạo đã nhận là 15.187 tấn và thuyền trưởng tàu Iran Sab uỷ quyền cho đại lý tàu VOSA ký B/L số 1 ngày 01/ 8 xác nhận số lượng hàng bốc lên tàu là 15.187 tấn tịnh phù hợp với M/R.
Ngày 03/ 8, Supervise Vietnam làm bản dự thảo chứng thư giám định và phát hành hoá đơn tính phí giám định yêu cầu Người bán thanh toán phí giám định cho 15.232,5 tấn cả bì là 10.510,47 USD. Người bán đã thanh toán đủ 10.547,47 USD phí giám định cho Supervise Vietnam và Supervise Vietnam cấp bản dự thảo biên bản giám định về số lượng, chất lượng lô hàng để công ty xuất trình cho Vietcombank HCMC kiểm tra, nếu đạt yêu cầu, không có sai sót thì Supervise Vietnam sẽ cấp chính thức.
Nhưng khi Người bán yêu cầu cấp chứng thư giám định chính thức, Supervise Vietnam chỉ đồng ý cấp chứng thư cho 15.018,45 tấn, thiếu 168,55 tấn so với B/L. Người bán không chấp nhận chứng thư này vì sẽ bị ngân hàng từ chối thanh toán do bất hợp lệ.
Người bán khiếu nại nhưng Supervise Vietnam vẫn không cấp lại chứng thư và trả lại phí giám định của 168,55 tấn hàng. Supervise Vietnam yêu câu Người bán phải thương lượng với Người mua, đề nghị họ có văn bản chính thức cho SGS Iran và SGS có văn bản yêu cầu Supervise Vietnam cấp chứng thư phù hợp.
Người bán đã làm việc nhiều lần với giám đốc Supervise Vietnam tại Thành phố Hồ Chí Minh nhưng Supervise Vietnam vẫn cố tình cấp chứng thư thiếu 169 tấn so với B/L.
Đến tháng 9/1994, Người mua qua Việt Nam, lúc này Supervise Vietnam mới nhận lỗi và hứa sẽ cấp ngay chứng thư đúng số lượng với B/L là 15.187 tấn tịnh và đã cấp trễ 40 ngày sau ngày ký B/L.
Đến ngày 07/11, Người bán mới nhận được tiền bán hàng, chậm 89 ngày so với thông thường. Người bán bị thiệt hại do trả lãi vay ngân hàng là 2.356.268.872 VND và các thiệt hại khác do không giao chuyến tiếp theo, đọng vốn do ký quỹ, phí tu chỉnh L/C,… là 235.980,11 USD. Người bán yêu cầu Supervise Vietnam bồi thường nhưng không được chấp nhận.
Người bán kiện Supervise Vietnam ra Toà án Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
Xét xử
Supervise Vietnam cho rằng việc cấp chứng thư cho 15.018,45 tấn là đúng vì đó mới thực sự là số gạo được vận chuyển đi. Số gạo ướt bốc lên bờ, Bảo Việt đã thanh toán tiền bảo hiểm cho chủ hàng.
Người bán đặt câu hỏi: “Khi hàng đã đưa lên tàu, nếu tàu bị cháy hoặc chìm thì Supervise Vietnam chứng thực ra sao?”. Supervise Vietnam trả lời: “Họ không có trách nhiệm chứng thực cho số hàng đó.”
Tòa phán quyết rằng, Người bán đã hoàn thành nghĩa vụ theo điều kiện FOB. Rủi ro xảy ra chủ tàu phải gánh chịu. Supervise Vietnam không cấp chứng thư phù hợp với thực tế là sai và phải bồi thường cho Người bán. Căn cứ vào Điều 10 của “Những tiêu chuẩn chung do Hiệp hội các hãng giám định quốc tế họp tại London 10/1988” toà quyết định Supervise Vietnam phải bồi thường 10 lần phí giám định là 103.938,10 USD.
Bình luận
Rủi ro đối với hàng hóa sau khi giao hàng lên trên tàu theo điều kiện FOB người mua phải chịu. Trong điều kiện FOB, người chuyên chở sẽ đại diện cho người mua chịu những rủi ro này. Mặc dù người bán đã được bảo hiểm của người chuyên chở bồi thường, người bán vẫn được coi là hoàn thành nghĩa vụ giao hàng lên trên tàu theo điều kiện FOB. Do đó, người bán có quyền đòi hỏi người giám định cấp chứng thư giám định theo số lượng hàng đã được giám định thực tế trước khi giao lên trên tàu.
Tài liệu tham khảo và dẫn chiếu trong bài viết:
- Giáo trình Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế – Học viện Tài chính
- Giáo trình nghiệp vụ ngoại thương – Đại học Kinh tế Quốc dân
- Giáo trình thanh toán quốc tế – Đại học Ngoại thương
- Incoterms 2020 – Giải thích và hướng dẫn sử dụng – Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam
- Những điều cần biết về Incoterms 2020 trong hoạt động ngoại thương tại Việt nam – Trường đại học Ngoại thương
- Các văn bản pháp quy về thủ tục hải quan hiện hành
Bài viết cùng chuyên mục:
Có thể bạn quan tâm:
- Thủ tục nhập khẩu và thuế nhập khẩu mỹ phẩm
- Hướng dẫn nhập khẩu mỹ phẩm cho người mới bắt đầu
- Thủ tục nhập khẩu thiết bị y tế và thuế nhập khẩu
- Hướng dẫn nhập khẩu thiết bị y tế cho người mới bắt đầu
Công ty TNHH HP Toàn Cầu
Nhà cung cấp dịch vụ vận chuyển quốc tế, thủ tục hải quan và giấy phép xuất nhập khẩu
Địa chỉ: Số 13, LK3 – NO03 – Khu đô thị Văn Khê – Phường La Khê – Quận Hà Đông – Hà Nội
Hotline: 08 8611 5726 hoặc Điện thoại: 024 73008608
Email: info@hptoancau.com