Hợp Đồng Thương Mại Quốc Tế
1. Khái niệm và đặc điểm của Hợp đồng thương mại quốc tế
Hợp đồng mua bán quốc tế hay còn gọi là hợp đồng mua bán xuất nhập khẩu hay hợp đồng mua bán ngoại thương là sự thỏa thuận giữa các bên đương sự có trụ sở kinh doanh tại các quốc gia khác nhau, mà theo đó một bên được gọi là bên xuất khẩu (bên bán) có nghĩa vụ chuyển vào quyền sở hữu của một bên được gọi là bên nhập khẩu (bên mua) một tài sản nhất định gọi là hàng hóa, và bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và trả tiền hàng.
Hợp đồng thương mại quốc tế có các đặc điểm cơ bản sau:
- Chủ thể của quan hệ hợp đồng TMQT có trụ sở thương mại tại các nước khác nhau hay hoặc có nơi cư trú khác nhau – Đây là đặc điểm quan trọng nhất của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
- Đối tượng của hợp đồng là hàng hóa được di chuyển từ khu vực pháp lý này đến khu vực pháp lý khác. Thông thường đối tượng của hợp đồng TMQT là hàng hóa chuyển qua biên giới của quốc gia, tuy nhiên, nhiều trường hợp hàng hóa không cần qua biên giới quốc gia vẫn được xem là hoạt động mua bán quốc tế như hàng hóa đưa ra, đưa vào khu phi thuế quan, kho bảo thuế, kho ngoại quan
- Đồng tiền thanh toán: là ngoại tệ đối với một hoặc cả hai bên
- Nguồn luật điều chỉnh: Đa dạng, phức tạp, chịu sự chi phối của nhiều hệ thống luật khác nhau như: Điều ước thương mại quốc tế, tập quán thương mại quốc tế, án lệ, tiền lệ, luật quốc gia …
Điều kiện hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
- Chủ thể của hợp đồng: bên mua và bên bán phải có đủ tư cách pháp lý
- Đối tượng của hợp đồng là hàng hoá được phép mua bán theo quy định của pháp luật (*)
- Nội dung của hợp đồng phải bao gồm các điều khoản chủ yếu mà pháp luật quy định. Thông thường các điều khoản chủ yếu của hợp đồng bao gồm: Tên hàng, số lượng, chất lượng/phẩm chất, giá cả, phương thức thanh toán, giao hàng
- Hình thức của hợp đồng: bằng văn bản hoặc hình thức khác có giá trị tương đương: điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu (**)
(**) Làm rõ Hình thức của Hợp đồng
Khoản 2, Điều 27 Luật Thương mại quy định: “Mua bán hàng hoá quốc tế phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương”
Mặc dù Công ước Viên 1980 mà Việt Nam tham gia (xem nội dung bên dưới), Điều 11 quy định “Hợp đồng mua bán không cần phải được ký kết hoặc xác nhận bằng văn bản hay phải tuân thủ một yêu cầu nào khác về hình thức của hợp đồng. Hợp đồng có thể được chứng minh bằng mọi cách, kể cả những lời khai của nhân chứng.”. Tuy nhiên, Việt Nam bảo lưu Quy định về hình thức hợp đồng nêu tại Điều 11 tại Công ước này.
Do đó, hình thức Hình thức của Hợp đồng thương mại Quốc tế cần phải thực hiện bằng văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương
Điểm 1, điều 2, Thông tư 39/2015/TT-BTC ngày 25/03/2015 của Bộ Tài chính định nghĩa: Hợp đồng mua bán hàng hóa là thỏa thuận mua bán hàng hóa được xác lập bằng văn bản hoặc các hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm: điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu. Trong đó, người bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho người mua và nhận thanh toán; người mua có nghĩa vụ thanh toán cho người bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận; hàng hóa được chuyển từ người bán sang người mua, qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam hoặc từ khu phi thuế quan vào thị trường nội địa hoặc từ thị trường nội địa vào khu phi thuế quan.
Phân loại Hợp đồng thương mại quốc tế
Hợp đồng thương mại quốc tế được chia thành nhiều loại khác nhau, tuỳ từng tiêu thức phân loại.
Xét về thời gian thực hiện hợp đồng, có hợp đồng thương mại quốc tế ngắn hạn và hợp đồng thương mại quốc tế dài hạn. Hợp đồng thương mại quốc tế ngắn hạn thường là những hợp đồng có thời gian thực hiện dưới một năm. Hợp đồng thương mại quốc tế dài hạn là hợp đồng có thời gian thực hiện trên một năm, do đó một hợp đồng dài hạn có thể được cụ thể thành nhiều hợp đồng ngắn hạn.
Xét về nội dung quan hệ kinh doanh trong hợp đồng, có hợp đồng xuất khẩu, hợp đồng nhập khẩu, hợp đồng tạm nhập tái xuất.
Xét về hình thức hợp đồng, có hợp đồng ký kết dưới hình thức văn bản và các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương.
2. Công ước Viên 1980
Công ước của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG), còn gọi là Công ước Viên năm 1980, do Ủy ban Liên Hợp Quốc về Luật Thương mại quốc tế soạn thảo và được thông qua ngày 11/4/1980 tại Viên. Công ước này được soạn thỏa nhằm thống nhất về pháp luật nội dung áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Cho đến nay, CISG đã trở thành một trong các công ước quốc tế về thương mại được phê chuẩn và áp dụng rộng rãi nhất trên thế giới. Theo ước tính, công ước này điều chỉnh các giao dịch chiếm đến ba phần tư thương mại hàng hóa thế giới. Trong danh sách các quốc gia thành viên của Công ước Viên 1980, có sự góp mặt của các quốc gia thuộc các hệ thống pháp luật khác nhau, các quốc gia phát triển cũng như các quốc gia đang phát triển, các quốc gia tư bản chủ nghĩa cũng như các quốc gia theo đường lối xã hội chủ nghĩa nằm trên mọi châu lục. Hầu hết các cường quốc về kinh tế trên thế giới (Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Canada, Australia, Nhật Bản…) đều đã tham gia CISG. Tính đến hiện nay (năm 2021) Công ước Viên 1980 có 96 thành viên.
Ngày 24/11/2015, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam đã ký Quyết định số 2588/2015/QĐ-CTN về việc gia nhập Công ước này. Việt Nam là thành viên thứ 84 của CISG. Công ước Viên chính thức có hiệu lực đối với Việt Nam từ ngày 1/1/2017.
Như vậy, kể từ 01/01/2017, khi doanh nghiệp Việt Nam ký kết hợp đồng với đối tác nước ngoài có trụ sở tại một nước thành viên thì mặc nhiên Công ước viên sẽ được áp dụng để điều chỉnh hợp đồng giữa hai bên, trừ khi hợp đồng ghi rõ Không áp dụng Công ước Viên.
Vì vậy, khi ký hợp đồng thương mại quốc tế, các doanh nghiệp nên nắm rõ nội dung của Công ước Viên 1980
- Công ước Viên 1980 bản tiếng Anh
- Bản dịch Công ước Viên 1980 tiếng Việt
- Danh sách thành viên Công ước Viên 1980
Video:
3. Nội dung hợp đồng thương mại quốc tế
3.1. Cấu trúc của hợp đồng thương mại quốc tế
Cấu trúc của hợp đồng thương mại quốc tế được hiểu là các bộ phận hợp thành của một hợp đồng thương mại quốc tế.
Một hợp đồng thương mại quốc tế thường được cấu trúc thành năm nhóm nội dung chính:
- Tên và số hiệu hợp đồng
- Địa điểm và ngày tháng ký kết hợp đồng
- Phần mở đầu (Tên, địa chỉ các chủ thể tham gia hợp đồng)
- Phần nội dung chính bao gồm các điều khoản chính của hợp đồng
- Đại diện của các bên ký kết ký tên và đóng dấu
Lưu ý về thẩm quyền ký hợp đồng:
Lưu ý chữ ký phải đảm bảo là đúng người đại diện hợp pháp của doanh nghiệp. Trong trường hợp do người khác ký mà không phải là người đại diện hợp pháp của doanh nghiệp thì phải có giấy ủy quyền được đính kèm với hợp đồng.
Một số lưu ý cụ thể như sau:
- Cần kiểm tra giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp để biết ai là người đại diện theo pháp luật hoặc những ai là người đại diện theo pháp luật trong trường hợp doanh nghiệp có nhiều người đại diện theo pháp luật.
- Người hoặc những người đại diện theo pháp luật ký hợp đồng thì không cần giấy ủy quyền ký. Tuy vậy, “Người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện […]”(khoản 1, điều 141 BLDS 2015). Phạm vi đại diện cho doanh nghiệp trong việc ký kết hợp đồng thường căn cứ vào Điều lệ của pháp nhân hoặc giấy ủy quyền
- Trường hợp ký với chi nhanh thì cần có giấy ủy quyền của công ty (pháp nhân)
- Nếu không có giấy ủy quyền (khi cần phải có) thì không nên ký. Nếu đã ký mà không có giấy ủy quyền thì cần chứng minh người được đại diện biết mà không phản đối (điểm b khoản 1 Điều 143 BLDS 2015), ví dụ Người đại diện theo pháp luật ký hóa đơn đòi tiền
- Tại thời điểm ký hợp đồng, người ký hợp đồng có phải là người đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền hay không vì doanh nghiệp có thể thay đổi người đại diện theo pháp luật
- Cần kiểm tra điều lệ Công ty để biết thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật. Không nên chỉ căn cứ vào giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
- Với những hợp đồng có giá trị lớn hoặc phức tạp mà doanh nghiệp chưa thông thạo thì nên thuê luật sư tư vấn để phòng tránh rủi ro
- “Trường hợp người đại diện và người giao dịch với người đại diện cố ý xác lập, thực hiện giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại diện mà gây thiệt hại cho người được đại diện thì phải chịu trách nhiệm liên đớn bồi thường thiệt hại” (khoản 4, điều 143 BLDS 2015)
- “Trường hợp giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện thì người đại diện phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần giao dịch vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải viết về việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch” (khoản 2, điều 143 BDLS 2015)
Xem thêm Một số tranh chấp về thẩm quyền ký hợp đồng tại đây
3.2. Nội dung cơ bản các điều khoản của hợp đồng thương mại quốc tế
Nội dung cơ bản của hợp đồng thương mại quốc tế chính là các điều khoản được thỏa thuận giữa các bên. Các điều khoản của hợp đồng thương mại quốc tế, thường có hai nhóm, các điều khoản bắt buộc (là các điều khoản thường phải có trong hợp đồng, như điều khoản về tên hàng, số lượng, chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán v.v) và các điều khoản tùy ý (các điều khoản tùy vào sự thỏa thuận và thống nhất giữa các bên tham gia)
3.2.1. Điều khoản về tên hàng (Commodity)
Điều khoản về tên hàng nhằm mục đích giúp các bên xác định được loại hàng cần mua bán, do đó điều khoản phải được diễn tả thật chính xác.
- Là điều khoản chủ yếu của hợp đồng
- Dễ bị hiểu nhầm
- Thường gắn với mục tiêu của hợp đồng
- Phải quy định, diễn tả thật chính xác về tên hàng
Người bán và người mua có thể dùng các cách sau để quy định về tên hàng:
+ Ghi tên hàng bao gồm tên thông thường, tên thương mại, tên khoa học, đặc biệt trong trường hợp các hàng hóa là hóa chất, dược phẩm, giống cây …
vd: Một chất phụ gia làm kết dính dùng để chế biến thực phẩm có tên thông thường và tên thương mại là “I+G”, có tên khoa học là Disodium 5′ – Insosiate 50%& Disodium 5′ – Guanylate 50% (là một chất hỗn hợp của IMP (Disodium inosine 5′ – monophosphate) và GMP (Disodium guaniosine 5′ monophosphate)
hoặc Quả thanh long, tên khoa học là Hylocereus undatus thuộc chi Hylocereus, ruột trắng với vỏ hồng hay đỏ
+ Ghi tên hàng kèm theo tên địa phương sản xuất ra nó , nếu nơi đó có ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Ví dụ: Rượu vang Bordeau, Cà phê Buôn Mê Thuột, chè Thái Nguyên …
+ Ghi tên hàng kèm với quy cách của chính hàng hóa đó, ví dụ: Xe tải nhẹ 3.5 tấn, xe du lịch 4 chỗ ngooiaf…
+ Ghi tên hàng kèm với tên nhà sản xuất ra nó, đặc biệt áp dụng với những sản phẩm nổi tiếng của những hãng có uy tín, vd: Bia Heineken, Giấy Adidas…
+ Ghi tên hàng kèm với công dụng của hàng. Ví dụ: hàng hóa là tuyn để làm màn, xe nâng hàng, máy thổi chai nhựa…
+ Ghi tên hàng kèm theo nhãn hiệu của nó. Ví dụ: bia Tiger, bột giặt Omo, sữa Nestle…
+ Ghi tên hàng kèm theo mã số hàng trong danh mục hàng hoá thống nhất – danh mục hàng hoá dựa trên công ước HS (Công ước của LHQ về Hệ thống hài hoà mô tả và mã hoá hàng hoá). Ví dụ: Ngựa sống (nhóm 01.01), Lông ngựa (nhóm 05.03), Ngựa để làm xiếc (nhóm 95.08)…
+ Ghi hỗn hợp, vd: Gạo trắng 5% tấm vụ hè thu
3.2.2. Điều khoản về chất lượng/phẩm chất (Quality)
Điều khoản về phẩm chất là điều khoản phản ánh mặt chất lượng của hàng hóa bao gồm tính năng, quy cách, kích thước, tác dụng, công suất, hiệu suất … của hàng hóa.
- Là điều khoản bổ sung và làm rõ điều khoản tên hàng.
- Có nhiều cách quy định chất lượng hàng khác nhau
- Là điều khoản dễ gây tranh chấp
-> Nên quy định cụ thể, rõ ràng về chất lượng, quy cách, phẩm chất … của hàng hóa
Dưới đây là một số các diễn đạt phổ biến về phẩm chất hàng hóa trong hợp đồng:
– Dựa vào mẫu hàng: Mẫu hàng là 1 đơn vị hàng hóa lấy ra từ lô hàng giao dịch.
Phương pháp xác định phẩm chất hàng hóa dựa vào mẫu hàng chỉ áp dụng cho những hàng hóa phẩm chất ít biến đổi bởi môi trường bên ngoài. Ví dụ thường được áp dụng cho các hợp đồng mua bán gạo, cà phê, lạc nhân, quặng …
– Dựa vào tiêu chuẩn và phẩm cấp:
Tiêu chuẩn là những quy định về sự đánh giá chất lượng hoặc các chỉ tiêu về phẩm chất (quốc gia, quốc tế). Ví dụ để mô tả phẩm chất mặt hàng máy giặt, không thể dùng cách mô tả kiểu máy giặt loại lồng đứng hay lồng nghiêng, khối lượng giặt bao nhiêu, công suất như thế nào, điện áp bao nhiêu, sử dụng công nghệ nào… mà chỉ cần đưa ra một mức tiêu chuẩn của mặt hàng này: Số hiệu tiêu chuẩn: TCVN 8526:2010; tên tiêu chuẩn: Máy giặt gia dụng.
Phẩm cấp cũng là một loại tiêu chuẩn, tuy nhiên nó có một sự di chuyển về quy cách phẩm chất. Ví dụ: TCVN về phẩm cấp gạo có các loại: Gạo 5% tấm, Gạo 10% tấm, Gạo 20% tấm, Gạo 25% tấm…
– Dựa vào nhãn hiệu hàng hóa:
Nhãn hiệu là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hoá, dịch vụ của chủ thể khác. Nhãn hiệu được khắc, in trên hàng hoá hay trên bao bì hàng hoá để phân biệt hàng hoá nơi sản xuất này với nơi sản xuất khác. Mỗi nhãn hiệu, đặc biệt là những nhãn hiệu có uy tín cao, sẽ có một chất lượng sản phẩm khác nhau, ngay khi cùng một loại hàng hoá, thậm chí giá cũng khác nhau. Vì thế, khi mua bán chỉ cần dựa vào nhãn hiệu đó cũng đã xác định được chất lượng hàng hoá. Ví dụ các nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng như chè Lipton, áo sơ mi Pierre Cardin, xe máy Piaggio…
– Dựa vào tài liệu kỹ thuật:
Đây là phương pháp thường áp dụng cho máy móc thiết bị, hàng công nghiệp… Đi kèm với hợp đồng mua bán hàng hoá thường là các tài liệu kỹ thuật như bảng thuyết minh, catalogue, chỉ dẫn lắp đặt và hướng dẫn vận hành. Tài liệu kỹ thuật thuộc bản quyền người bán, vì vậy người mua không được thay đổi, sửa chữa.
– Dựa vào hàm lượng các chất chủ yếu có trong hàng:
Hàm lượng của chất trong hàng hoá có thể chia làm hai loại: Chất có ích và chất không có ích. Chất có ích thường được quy định hàm lượng (%) min. Chất không có ích thường được quy định hàm lượng (%) max. Cách quy định này thường được áp dụng khi buôn bán nông sản, khoáng sản, thực phẩm chế biến, hoá chất…
Ví dụ: Phẩm chất gạo xuất khẩu 25% tấm quy định như sau: – Độ ẩm tối đa 14% (moisture max 14%)
– Tạp chất tối đa 0,5% (foreign matter max 0,5%) Đ
– Hạt vỡ tối đa 25% (broken bean max 25%)
– Hạt nguyên tối thiểu 40% (standard bean min 40%)
– Hạt hư không quá 2% (damaged grain max 2%)
– Hạt bạc bụng không quá 8% (chalky grain max 8%)
– Hạt đỏ không quá 4% (red bean max 4%)
– Dựa vào hiện trạng hàng hóa:
Đây là phương pháp mô tả chất lượng hàng hóa dựa vào hiện trạng thực tế của hàng hóa, người bán chỉ chịu trách nhiệm giao hàng theo đúng tên gọi mà không chịu trách nhiệm về chất lượng của hàng. Vì vậy, cách này được sử dụng trong các trường hợp mua hàng khi tàu đến, hàng bán tại kho, bán hàng thanh lý hoặc khi thị trường thuộc về người bán.
– Dựa vào dung trọng
Dung trọng (natural weight) là trọng lượng tự nhiên của hàng hóa trên một đơn vị thể tích. Phương pháp này áp dụng phổ biến đối với các mặt hàng ngũ cốc, lương thực, thường được sử dụng kết hợp với phương pháp mô tả.
– Dựa vào xem hàng trước
(hay còn gọi là “đã xem và đồng ý”): Người mua sẽ được quyền xem trước hàng hóa, nếu đồng ý sẽ nhận hàng và thanh toán tiền. Phương pháp này áp dụng cho các mặt hàng như đồ cổ, hàng đấu giá, đồ cũ …
– Dựa vào các chỉ tiêu đại khái quen dùng
Phương pháp này thường được áp dụng khi mua bán hàng nông sản, nguyên liệu mà phẩm chất của chúng khó tiêu chuẩn hóa.
Trên thị trường thế giới, thường dùng một số chỉ tiêu phỏng chừng như FAQ, GMQ.
+ FAQ: Fair Average Quality (Phẩm chất trung bình khá): người bán từ mọt đỉa điểm nhất định phải giao hàng theo phẩm chất không thấp hơn phẩm chất bình quân của cùng loại hàng vẫn thường được gửi từ nơi nào đó trong một thời gian nhất định.
+ GMQ: Good Merchantable Quality (Phẩm chất tiêu thụ tốt): người bán phải giao hàng có phẩm chất thông thường được mua bán trên thị trường mà một khách bình thường sau khi xem xét đầy đủ có thể chấp nhận được.
+ Good Ordinary Brand (Nhãn hiệu thông thường)
+ Độ lên men thông thường/tốt (Cacao)
– Dựa vào quy cách phẩm chất của hàng hóa: Quy cách là những chi tiết về mặt chất lượng như công suất, kích cỡ, trọng lượng … của một hàng hóa. Thường dùng trong mua bán các thiết bị, máy móc, công cụ vận tải …
vd: Thông số kỹ thuật của xe máy Click, hãng Honda:
Động cơ: Xăng, 4 kỳ, 1 xi lanh, cam đơn, làm mát bằng dung dịch
Dung tích xy lanh: 108 cc
Tỷ số nén: 11:1
Công suất tối đa: 6.7 kw/7500 rpm
Mô men cực đại: 9.2 Nm/5500 rpm
– Dựa vào lượng thành phẩm thu được từ hàng hóa: Quy định số lượng thành phẩm được sản xuất ra từ hàng hóa, vd: Số lượng dầu lấy được từ hạt có dầu (đỗ tương, vừng, lạc …), số lượng len lấy được từ lông cừu. Thường dùng trong mua bán nguyên liệu hoặc bán thành phẩm.
– Dựa vào sự mô tả hàng hóa
Trong hợp đồng sẽ nêu tất cả các đặc điểm về hình dạng, màu sắ, kích cỡ, thông dụng … của sản phẩm. Phương pháp này áp dụng được cho mọi sản phẩm có khả năng mô tả được, thông thường nó được sử dụng kết hợp với các phương pháp khác.
3.2.3. Điều khoản về số lượng (Quantity)
Đây là một trong những điều khoản quan trọng trong một hợp đồng thương mại quốc tế. Điều khoản này xác định số lượng thực tế hàng hóa sẽ được mua bán.
- Là điều khoản cơ bản nên có trong hợp đồng
- Có nhiều cách xác định số lượng
- Chú ý đơn vị tính số lượng
3.2.3.1. Đơn vị tính số lượng
- Đơn vị số đếm: cái, chiếc, bộ, kiện, hòm …
- Đơn vị đo lường
Cần lưu ý các nước có thể sử dụng hệ thống đo lường khác nhau
vd: hệ mét hệ: 1 MT (metric – ton) = 1000 kg
hệ Anh – Mỹ, 1 tấn mỹ – 1 ST (Short – ton) = 907,187 kg; 1 tấn Anh – 1 LT (long – ton): 1.016,047 kg
Cũng có thể cùng một đơn vị đo lường nhưng áp dụng với mỗi hàng hóa lại khác nhau. Ví dụ: 1 ounce (đối với hàng hóa thông thường = 31,1 gram; 1 ounce (đối với vàng bạc) = 28,35 gram.
Lưu ý: Khi kiểm tra đơn vị tính, đơn vị tính phải được định lượng rõ ràng theo đơn vị đo lường (như m, kg…), trường hợp không định lượng được rõ ràng (như thùng, hộp …) thì phải tiến hành quy đổi tương đương (như thùng có bao nhiêu hộp, mỗi hộp có bao nhiêu kg, bao nhiêu gói, chiếc …).
3.2.3.2. Phương pháp quy định số lượng
Quy định chính xác
Cách quy định này thường dùng với những hàng hóa tính bằng cái, chiếc, hàng hóa dễ cân đong đo đếm, hàng hóa với số lượng nhỏ. Các bên quy định chính xác số lượng hàng hóa được mua bán ngay khi ký kết hợp đồng. Số lượng không thay đổi trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng.
Quy định phỏng chừng
Cách quy định này cho phép một mức chênh lệch trong giao nhận số lượng hàng hóa. Khoản chênh lệch đó gọi là dung sai về số lượng.
Thường dùng đối với việc mua bán các mặt hàng có khối lượng lớn như ngũ cốc, than, quặng, dầu mỏ … hay những mặt hàng có tỷ lệ hao hụt tự nhiên để thuận tiện cho việc thu gom hàng, tạo thuận lợi cho việc thuê tàu, tránh được hao hụt trong quá trình vận chuyển và sai số trong cân đo hàng hóa.
Điều khoản này có thể được thể hiện trong hợp đồng bằng cách ghi các cụm từ “about”, “approximately”, “from … to…”
Trường hợp dung sai không được xác định và ghi trong hợp đồng thì áp dụng phạm vi dung sai theo tập quán hiện hành đối với hàng hóa như buôn bán ngũ cốc có dung sai: +-5%; cà phê: +- 3%, cao su: +-2.5%; gỗ: +-10%, máy thiết bị +-5% trọng lượng hàng giao.
3.2.3.3. Phương pháp xác định trọng lượng
Đối với những hàng hóa xác định theo trọng lượng, cần nắm rõ các phương pháp xác định trọng lượng hàng hóa. Trọng lượng hàng hóa có thể được tính theo các cách khác nhau.
Trọng lượng cả bì (Gross weight)
Là trọng lượng của bản thân hàng hóa cộng với trọng lượng của bao bì. Phương pháp này được áp dụng khi trọng lượng hoặc trị giá của bao bì quá nhỏ so với trọng lượng hoặc giá trị của lô hàng, hoặc đối với những mặt hàng không thể tách rời khỏi bao bì. Đây là phương pháp xác định trọng lượng hàng hóa phổ biến.
Trọng lượng tịnh (Net weight)
Là trọng lượng thực tế của bản thân hàng hóa mà không tính đến bất cứ loại bao bì nào.
Trọng lượng thương mại (Commercial weight)
Là trọng lượng của hàng hóa ở độ ẩm tiêu chuẩn. Phương pháp này thường áp dụng cho những mặt hàng dễ hút ẩm có độ ẩm không ổn định, giá trị kinh tế tương đối cao như bông, đay, len, tơ tằm …
Trọng lượng lý thuyết: Là trọng lượng tính toán đơn thuần dựa vào lý thuật hay thiết kế. Phương pháp này áp dụng tính cho các mặt hàng có quy cách và kích thước cố định (vd: théo tròn, thép cuộn, thép tấm..) hoặc mua bán theo thiết kế.
3.2.4. Điều khoản giá cả (Price)
Là điều khoản phức tạp. Cần quy định cụ thẻ về đơn giá, tổng giá, đồng tiền tính giá, đồng tiền thanh toán, phương pháp quy định giá cả, giảm giá (nếu có và chú ý đến điều kiện cơ sở giao hàng để tính toán giá cho phù hợp
3.2.4.1. Đồng tiền tính giá
Trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc giá, giá cả hàng hóa có thể được tính bằng tiền của nước người bán, nước người mua hoặc có thể là đồng tiền của nước thứ ba.
Việc lựa chọn đồng tiền tính giá còn phụ thuộc vào tập quán ngành hàng, tương quan giữa người mua và người bán trên thị trường và chính sách kinh tế đối ngoại.
Ví dụ trong buôn bán cao su, kim loại màu, than… đồng tiền tính giá thường được quy định bằng đồng bảng Anh; trong buôn bán về sản phẩm dầu mỏ, da lông thú, đồng tiền tính giá thường là đồng đô la Mỹ.
Các bên mua bán thường thống nhất chọn đồng tiền nào có giá ổn định trên thị trường hối đoái, có khả năng chuyển đổi cao, hay gọi là đồng tiền mạnh như: USD, JPY, EUR, GBP.
3.2.4.2. Phương pháp quy định giá
Giá cố định (Fixed price)
Là giá cả được thỏa thuận vào lúc ký hợp đồng và không xem xét lại trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng.
Phương pháp này áp dụng cho những hợp đồng ngắn hạn với những mặt hàng mà giá ít có sự biến động trên thị trường.
Giá linh hoạt (Flexible price)
Là giá được xác định lúc ký kết hợp đồng nhưng có thể được thay đổi trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Khi vận dụng phương pháp quy định giá này, người ta cần đưa ra một giá gốc trong hợp đồng, nguồn tài liệu để phán đoán sự biến động của giá cả, thỏa thuận tỷ lệ để điều chính (biến động giá) và xác định thời điểm để xem xét lại giá.
Ví dụ trong các hợp đồng dài hạn về mua bán nguyên liệu công nghiệp, lương thực … người ta thường thỏa thuận điều khoản cho phép xét lại giá hợp đồng khi giá thị trường biến động vượt quá mức 5% hoặc 10% so với giá hợp đồng quy định.
Giá quy định sau (Deferred fixing price)
Là giá chưa được quyết định trong lúc đàm phán và ký hợp đồng mà được xác định trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Trong hợp đồng, người ta chỉ thỏa thuận với nhau một thời điểm nào đó và những nguyên tắc nào đó hai bên sẽ gặp nhau xác định giá.
Ví dụ: “Giá được xác định vào thời điểm trước khi giao hàng”, “Giá sẽ được tính tại thời điểm thanh toán theo giá quốc tế tại sở giao dịch hàng hóa hay theo giá bán trên thị trường chính của mặt hàng”
Phương pháp này được sử dụng với những hợp đồng mua bán hàng hóa có sự biến động mạnh về giá trên thị trường và trong thời kỳ lạm phát với tốc độ cao.
Giá di động (Sliding scale price)
Là giá được khẳng định ngay khi ký kết hợp đồng nhưng tại thời điểm thanh toán thì nó được xác định lại, được tính toán lại trượt theo khả năng thay đổi của những yếu tố cấu thành. Phương pháp này thường áp dụng cho những mặt hàng có quá trình chế tạo lâu dài, như hàng thiết bị toàn bộ, tàu biển, các thiết bị lớn trong công nghiệp …
3.2.4.3. Các khoản giảm giá
Trong điều khoản giá cả, có thể quy định thêm về giảm giá (Discount).
Giảm giá là một khoản ưu đãi tín dụng của bên bán hàng dành cho bên mua hàng.
Xét theo nguyên nhân giảm giá, có các loại giảm giá như do trả tiền sớm, giảm giá thời gụ, giảm giá đổi hàng cũ lấy hàng mới, giảm giá do mua hàng với số lượng lớn …
Xét về cách tính giảm giá: Giảm giá đơn (giảm giá 1 lần cho toàn bộ các nguyên nhân, thường được biểu thị bằng một mức % so với giá chào hàng); Giảm giá kép (là mức ưu đãi giảm giá do nhiều nguyên nhân, mỗi nguyên nhân có tỷ lệ giảm giá nhất định: vd: giảm giá 5% do mua hàng với số lượng nhiều, giảm 2% do mua hàng trái thời vụ…); Giảm giá lũy tiến ( giảm giá có mức tăng dần theo số lượng hàng hóa được mua bán trong đợt giao dịch nhất định); Giảm giá tặng thưởng (Giảm giá mà người bán thưởng cho người mua thường xuyên, nếu trong một thời hạn nhất định tổng số tiền mua hàng đượt được tới một mức nhất định.
3.2.4.3. Điều kiện cơ sở giao hàng
Nhằm phân biệt trách nhiệm, nghĩa vụ và các chi phí cơ bản giữa người mua và người bán trong hợp đồng, trong các hợp đồng mua bán, mức giá được ghi bên cạnh một điều kiện cơ sở giao hàng nhất định.
Vd: FOB Shanghai, CIF Tokyo…
3.2.5. Điều khoản giao hàng (Delivery)
Điều khoản giao hàng là điều khoản xác định thời hạn, địa điểm giao hàng, phương thức giao hàng và thông báo giao hàng
3.2.5.1. Thời hạn giao hàng
Thời hạn giao hàng là thời hạn mà người bán phải hoàn thành nghĩa vụ giao hàng. Trong buôn bán quốc tế có 3 kiểu quy định thời hạn giao hàng:
Giao hàng theo định kỳ: Là việc xác định thời hạn giao hàng vào một khoảng (mốc) thời gian nhất định. Ví dụ giao hàng vào ngày 31/12/2019, giao trong quý III năm 2020, không chậm quá ngày 31/09/2019 v.v
Giao hàng theo điều kiện: là việc xác định thời hạn giao hàng theo điều kiện nhất định. Ví dụ giao hàng cho chuyến tàu đầu tiên, giao hàng trong vòng 20 ngày kể từ ngày mở L/C, giao hàng trong vòng 20 ngày kể từ khi nhận được giấy phép xuất khẩu v.v
Giao hàng theo các thuật ngữ: là việc xác định thời hạn giao hàng theo các nhật ngữ như “giao nhanh” (promt”, “giao ngay lập tức” (Immediatly), “giao càng sớm càng tốt” (as soon as possible),,,
3.2.5.2. Địa điểm giao hàng
Việc lựa chọn địa điểm giao hàng có liên quan chặt chẽ đến phương thức chuyên chở hàng hóa và đến điều kiện cơ sở giao hàng.
Thường địa điểm giao hàng đi và địa điểm hàng chuyển tới phụ thuộc vào điều kiện thương mại quốc tế do hai bên mua và bán lựa chọn, có thể trong hợp đồng ghi rõ điểm đi/đến (port of discharging/destination: Hai Phong Port) hoặc ghi địa điểm giao hàng lựa chọn (one of Taiwan port, CIF European main ports, FOB Da Nang…)
3.2.5.3. Phương thức giao hàng
Trong điều khoản giao hàng luôn đề cập đến nội dung phương thức giao hàng.
Giao về số lượng: Xác định số lượng thực tế của hàng được giao bằng các phương pháp cân, đo, đếm …
Giao về chất lượng: Là việc kiểm tra hàng hóa về tính năng, công dụng, hiệu suất, kích thước và các chỉ tiêu khác để xác định sự phù hợp giữa chúng với quy định trong hợp đồng
Giao nhận sơ bộ: Bước đầu xem xét hàng hóa , xác định sự phù hợp về số lượng, chất lượng của hàng hóa với hợp đồng
Giao nhận cuối cùng: Là việc xác nhận việc người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng
3.2.5.4. Thông báo giao hàng
Trong các điều kiện cơ sở giao hàng Incoterms đã quy định trách nhiệm về thông báo giao hàng, tuy nhiên, trong hợp đồng thương mại quốc tế vẫn nên quy định rõ thêm về (i) số lần thông báo và (ii) nội dung, thời điểm mỗi lần thông báo
Ví dụ: Điều kiện FOB: Thông báo 3 lần:
Lần 1: Người bán thông báo sẵn sàng giao hàng
Lần 2: Người mua thông báo về việc cử tàu đến nhận hàng: Tên tàu, số hiệu của tàu, tên người vận tải, địa điểm giao hàng, thời gian giao hàng
Lần 3: Người bán thông báo về việc giao hàng: Kết quả giao hàng, số lượng và chất lượng hàng thực giao, ngày xếp hàng lên tàu, ngày được cấp vận đơn và số của vận đơn, ngày tàu khởi hành từ cảng đi và dự kiến ngày tàu đến cảng dỡ hàng …
Trong điều khoản giao hàng, các bên còn thỏa thuận về hướng dẫn giao hàng:
– Có cho phép chuyển tải hay không (Transhipment): Allow/not Allowed (Prohibited)
– Giao hàng toàn bộ hay giao hàng từng phần (Partial shipment)
– Giao hàng một lần hay giáo hàng nhiều lần (Shipment by istalment)
3.2.6. Điều khoản thanh toán
Đây là điều khoản quy định về đồng tiền thanh toán, thời hạn trả tiền, hình thức trả tiền và các chứng từ làm căn cứ để trả tiền
3.2.6.1. Đồng tiền thanh toán (Payment currency)
Đồng tiền thanh toán (currency of payment) là đồng tiền được hai bên thỏa thuận sử dụng trong thanh toán hàng hóa.
Việc thay toán tiền hàng được tiền hành bằng đồng tiền của nước xuất khẩu, của nước nhập khẩu hoặc một nước thứ ba. Đôi khi trong hợp đồng còn cho quyền người nhập khẩu được thanh toán bằng các ngoại tệ khác nhau tùy theo sự lựa chọn của mình.
Đồng tiền thanh toán có thể trùng hợp hoặc không trùng hợp với đồng tiền tính toán. Nếu không trùng hợp thì phải quy định tỷ giá quy đổi.
3.2.6.2. Thời hạn thanh toán (Time of payment)
Khi thỏa thuận về thời hạn thanh toán, các bên có thể thống nhất thời hạn thanh toán: Trả tiền trước, trả tiền sau, trả tiền ngay khi giao hàng hoặc thanh toán theo phương thức hỗn hợp.
Thanh toán trước: Người mua giao tiền hàng trước khi người bán giao hàng hoặc thực hiện đơn đặt hàng
+ Người mua thanh toán trước với mục đích cấp tín dụng
+ Người mua thanh toán trước cho người bán với mục đích là tiền đặt cọc đảm bảo thực hiện hợp đồng
Thanh toán ngay
Thanh toán ngay là việc thanh toán vào trước lúc hoặc trong lúc người xuất khẩu đặt chứng từ hàng hóa hoặc đặt bản thân hàng hóa dưới quyền định đoạt của người mua.
Người nhập khẩu có thể trả tiền cho người xuất khẩu :
Ngay sau khi người xuất khẩu hoàn thành nghĩa vụ giao hàng không trên phương tiện vận tải tại nơi giao hàng quy định
Ngay sau khi người xuất khẩu hoàn thành nghĩa vụ giao hàng trên phương tiện vận tải tại nơi giao hàng quy định
Ngay sau khi người nhập khẩu nhận bộ chứng từ hoặc
Người nhập khẩu trả tiền ngay cho người xuất khẩu sau khi nhận xong hàng hóa tại nơi quy định hoặc cảng đến.
Thanh toán ngay có thể thực hiện trong phương thức thanh toán D/P trong nhờ thu và L/C trả ngày trong phương thức tín dụng chứng từ
Thanh toán sau (trả chậm)
Thanh toán sau là việc người mua trả tiền cho người bán một thời gian sau khi người bán đã giao hàng xong
Nếu lấy 4 loại trả tiền ngay làm mốc mà việc trả tiền xảy ra ngay sau đó x ngày thì có 4 loại trả tiền sau:
Trả tiền sau x ngày kể từ ngày được thông báo của người xuất khẩu hoàn thành nghĩa vụ giao hàng không trên phương tiện vận tải tại nơi giao hàng quy định
Trả tiền sau x ngày kể từ ngày người xuất khẩu hoàn thành nghĩa vụ giao hàng trên phương tiện vận tải tại nơi giao hàng quy định
Trả tiền sau x ngày kể từ ngày người nhập khẩu nhận bộ chứng từ hoặc
Trả tiền sau x ngày kể từ ngày nhận xong hàng hóa
Thanh toán sau có thể thực hiện trong phương thức thanh toán D/A trong nhờ thu hay L/C trả chậm trong phương thức tín dụng chứng từ.
Thanh toán hỗn hợp
Là cách thức thanh toán sử dụng kết hợp cả ba cách thức thanh toán trước, thanh toán ngay và thanh toán sau. Đây là phương thức hay được sử dụng hiện nay.
3.2.6.3. Phương thức thanh toán
Trên thị trường, các bên mua bán thường thỏa thuận áp dụng các phương thức thanh toán phổ biến sau:
- Phương thức thanh toán tiền mặt
- Phương thức thanh toán chuyển tiền
- Phương thức thanh toán nhờ thu
- Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
Để biết chi tiết về các phương thức thanh toán, xem cụm bài viết Về Thanh toán quốc tế trên website hptoancau.com
https://hptoancau.com/phuong-thuc-thanh-toan-trong-to-khai-hai-quan/
3.2.6.4. Bộ chứng từ thanh toán
Trong điều khoản thanh toán, hai bên cần thống nhất bộ chứng từ thanh toán, đây được hiểu là người bán phải cung cấp cho người mua những chứng từ chứng minh việc giao hàng như hai bên đã thỏa thuận. Nếu bộ chứng từ người bán xuất trình là đầy đủ và hợp lệ mới được thanh toán bởi người mua hoặc ngân hàng phục vụ người mua.
Thông thường bộ chứng từ thanh toán gồm:
Hối phiếu (Bill of exchange)
Vận tải đơn (Bill of lading, Airway bill, Raiway bill…)
Hóa đơn bán hàng (Commercial invoice)
Bảng kê chi tiết hàng hóa (Packing list)
Giấy chứng nhận số lượng, chất lượng hàng hóa thực giao do người sản xuất xác nhận đảm bảo về hàng hóa mua bán (Certificate of Quantity/Certificate of Quality)
Số lượng mỗi loại chứng từ (bao nhiêu bản chính, bao nhiêu bản phụ) và gửi tới đâu sẽ do hai bên thỏa thuận khi đàm phán để ký hợp đồng. Tùy theo tình trạng hàng hóa mua bán và tính chất của cuộc trao đổi, mà người bán phải cung cấp cho người mua thêm những chứng từ khác (nếu có yêu cầu) như:
– Giấy chứng nhận bảo hiểm (nếu điều kiện giao hàng là CIF hoặc CIP)
– Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa
– Giấy chứng nhận kiểm tra, giám định hàng hóa
– Kiểm dịch, hun trùng …
3.2.7. Điều khoản bao bì, ký mã hiệu
3.2.7.1. Bao bì
Bao bì có các chức năng: chứa đựng hàng hóa theo tiêu chuẩn đơn vị; bảo vệ hàng hóa, tránh những tổn thất thiệt hại do tác động cảu môi trường bên ngoài, của tự nhiên hoặc do những hành động cố ý của con người; làm tăng giá trị của sản phẩm do tính thẩm mỹ của bao bì; gợi ý, kích thích nhu cầu người tiêu dùng; hướng dẫn người tiêu dùng cách sử dụng hàng hóa; phân biệt hàng hóa của hợp đồng này với hàng hóa của hợp đồng khác.
Trong điều khoản này, các bên thường thỏa thuận với nhau về chất lượng bao bì, phương thức cung ứng bao bì, giá cả bao bì.
– Chất lượng bao bì
Chất lượng của bao bì có thể được quy định bằng nhiều cách khác nhau
+ Quy định cụ thể: Trong hợp đồng nêu rõ yêu cầu về bao bì: Vật liệu làm bao bì, kích thước của bao bì, hình thức bao bì, yêu cầu về số lớp bao bì, đai nẹp..
+ Quy định chung chung: Trong hợp đồng quy định chung chung: Bao bì phải phù hợp với tính chất hàng hóa, phương tiện vận chuyển..
Bao bì đóng gói có thể do người bán hoặc do người mua cung cấp. Thông thường, bao bì hàng hóa thường do người bán cung cấp. Có trường hợp bên bán giao hàng kèm theo bao bì hàng hóa nhưng sau khi nhận hàng, bên mua phải trả lại bao bì cho người bán đóng. Trong trường hợp bao bì khan hiếm, người mua có thể gửi bao bì cho người bán đóng.
Giá cả của bao bì cũng được xác định tùy từng trường hợp cụ thể. Giá cả của bao bì cũng được xác định tùy từng trường hợp cụ thể. Giá cả của bao bì được tính cả vào giá hàng và trả cùng với giá hàng, hoặc giá bao bì được tính theo chi phí thực tế sản xuất ra bao bì hay được tính bằng một mức % so với giá hàng.
3.2.7.2. Ký mã hiệu (Marking)
Ký mã hiệu là những ký hiệu bằng chữ, bằng số hoặc bằng hình vẽ được ghi trên các bao bì bên ngoài dùng để hướng dẫn trong giao nhận, vận chuyển hoặc bảo quản hàng hóa.
Ký mã hiệu là một khâu cần thiết của quá trình đóng gói bao bì nhằm đảm bảo thuận lợi cho công tác giao nhận, hướng dẫn phương pháp, kỹ thuật bảo quản, vận chuyển, bốc dỡ hàng hóa.
Ký mã hiệu phải đáp ứng được một số yêu cầu như phải được viết bằng sơn hoặc mực không phai, không nhòe, phải có kích thước lớn, dễ đọc, dễ thấy, dùng màu đen hoặc màu tím với hàng hóa thông thường, màu đỏ với hàng hóa nguy hiểm, màu cam với hàng hóa độc hại, về mặt viết ký mã hiệu phải bào nhẵn, không làm ảnh hưởng đến phẩm chất hàng hóa …
Riêng đối với hàng hóa nhập khẩu, do Việt Nam có quy định về nhãn mác hàng hóa nhập khẩu khá nghiêm ngặt, nếu vi phạm nội dung này người nhập khẩu có thể bị phạt khá nặng và hàng hóa có thể bị tái xuất. Do đó, trong hợp đồng nhập khẩu, người nhập khẩu Việt Nam nên thống nhất với người bán về nội dung nhãn mác hàng hóa để hướng dẫn người xuất khẩu thực hiện.
Để biết về nội dung này, xem bài viết: Quy định hiện hành về nội dung nhãn mác hàng hóa nhập khẩu
3.2.8. Điều khoản bảo hành (Warranty)
Bảo hành là sự bảo đảm của người bán về chất lượng hàng hóa trong một thời gian nhất định. Thời gian này gọi là thời gian bảo hành. Điều khoản này thường xuất hiện trong các hợp đồng mua bán máy móc thiết bị.
Có ba loại quy định về bảo hành hàng hóa. Bảo hành chung (hay bảo hành thông thường) là việc người bán sẽ báo hành cho người mua về chất lượng của hàng hóa trong một thời gian nhất định. Bảo hành cơ khí là sự đảm bảo về mặt kỹ thuật gia công chế biến đối với hàng hóa có quy cách phẩm chất phức tạp. Bảo hành thực hiện là việc người bán bảo đảm cho công suất của máy móc thiết bị trong một thời gian nhất định.
Thời hạn bảo hành của hàng hóa phụ thuộc vào tính chất của hàng hóa, có thể từ một vài tháng đến một vài năm. Đối với hàng hóa có quy cách phẩm chất phức tạp thì thời hạn bảo hành sẽ lâu hơn. Thời hạn bảo hành có thể được tính kể từ khi giao hàng (áp dụng cho loại bảo hành thông thường), tính từ ngày mà hàng hóa đưa vào sử dụng hoặc tính từ ngày sử dụng hàng hóa nhưng không quá một thời hạn nhất định kể từ ngày giao hàng, cũng có thể tính từ ngày hàng hóa đã sản xuất ra một lượng sản phẩm nhất định.
3.2.9. Điều khoản phạt và bồi thường thiệt hại (Penalty)
Điều khoản phạt và bồi thường thiệt hại quy định những biện pháp chế tài khi hợp đồng không được thực hiện (toàn bộ hay một phần). Đây là điều khoản quy định trách nhiệm pháp lý phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng thương mại quốc tế.
Điều khoản này cùng lúc nhằm hai mục tiêu ngăn ngừa đối phương có ý định không thực hiện hay thực hiện không tốt hợp đồng và xác định số tiền phải trả nhằm bồi thường thiệt hại gây ra.
Các trường hợp phạt vi phạm hợp đồng bao gồm: phạt chậm giao hàng, phạt giao hàng không phù hợp về số lượng và chất lượng, phạt giao hàng không phù hợp, phạt do chậm thanh toán, phạt trong trường hợp hủy hợp đồng …
3.2.10: Điều khoản về bảo hiểm (Insurance)
Điều khoản này gồm hai nội dung cơ bản là ai phải chịu trách nhiệm và chi phí mua bảo hiểm cho hàng hóa (người mua hay người bán) và mức mua bảo hiểm là bao nhiêu.
3.2.11. Bất khả kháng (Force majeure)
Bất khả kháng là sự kiện khi xảy ra làm cho hợp đồng trở thành không thể thực hiện được mà không ai bị coi là phải chịu trách nhiệm. Chính vì vậy, điều khoản này còn được gọi là điều khoản miễn trách. Trong điều khoản này, các bên có thể liệt kê ra các sự kiện bất khả kháng như bão, lụt, động đất, bạo loạn, đình công… Điều khoản này cũng có thể quy định thêm rằng các sự kiện đó chỉ tạm ngừng việc thực hiện hợp đồng chứ không làm hợp đồng mất hiệu lực.
Từ khi có Covid 19 thì thuật ngữ “bất khả kháng” lại càng được quan tâm, qua một số vụ việc như: (i) Công ty logistics, công ty mua bán hàng hóa không thể giao hàng, nhận hàng hoặc vi phạm thời hạn giao hàng vì thiếu công nhân do phải đi cách ly tập trung, thậm chí công ty phải đóng cửa vì COVID 19 thì có từ chối bồi thường thiệt hại được không? (ii) có đòi Công ty bảo hiểm bồi thường vì những thiệt hại do Covid 19 được không?, (iii) vay tiền của ngân hàng để mua bán hàng hóa, dịch vụ nhưng không thể knh doanh thì có quyền từ chối hay hoãn trả tiền lãi hoặc chậm trả tiền gốc do Covid 19 không? Ngân hàng không thu được nợ do Covid 19, có phải là bất khả kháng không?
Vậy thế nào là sự kiện bất khả kháng?
“Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép” (khoản 1, điều 156 Bộ luật dân sự năm 2015).
Như vậy, có ba vấn đề cần xem xét để xác định một sự kiện có được coi là bất khả kháng hay không: (1) khách quan; (2) Không thể lường trước và (3) không thể khắc phục được.
“Khách quan” được hiểu là xảy ra do nguyên nhân tự nhiên hoặc do con người gây ra mà bên chịu tác động không thể biết, như sóng thần, động đất, thiên tai, dịch bệnh …
“Không thể lường trước” là nằm ngoài khả năng kiểm soát của con người và
“Không thể khắc phục được” là đã nỗ lực thực hiện mọi giải pháp nhưng không thể giải quyết được
Điều kiện để được miễn trách nhiệm do sự kiện bất khả kháng là gì?
Trong quan hệ hợp đồng, việc chứng minh sự kiện bất khả kháng sẽ giúp bên vi phạm không phải bồi thường thiệt hại hoặc thực hiện nghĩa vụ.
Muốn được miễn trách nhiệm do sự kiện bất khả kháng, bên vi phạm phải: (1) Thông báo ngay cho bên kia bằng văn bản theo khoản 1 Điều 295 LTM về trường hợp được miễn trách nhiệm và những hậu quả có thể xảy ra; (2) Chứng minh đã xảy ra sự kiện bất khả kháng; (3) Chứng minh đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép nhưng không thể khắc phục.
3.2.12. Khiếu nại (Claim)
Khiếu nại là việc một bên (bên bị vi phạm) yêu cầu bên kia (bên vi phạm) bồi thường cho những chi phí phát sinh do sự vi phạm hợp đồng gây nên, ví dụ như việc giao hàng không đúng số lượng, quy cách, không đúng thời hạn, chứng từ không phù hợp …
Thời hạn khiếu nại được quy định phụ thuộc tính chất hàng hóa, tính chất của việc khiếu nại. Ví dụ, khiếu nại đối với hàng tươi sống thường ngắn hơn so với hàng thông thường; khiếu nại hàng tiêu dùng thường ngắn hơn so với hàng máy móc thiết bị; khiếu nại về phẩm chất bao giờ cũng dài hơn khiếu nại về số lượng.
3.2.13. Trọng tài (Arbitration)
Trọng tài là phương pháp sử dụng người thứ ba không phải là tòa án để giải quyết xung đột xảy ra có liên quan đến hợp đồng thương mại (tức là khi có tranh chấp hợp đồng).
Trong điều khoản này thường quy định các nội dung như: trọng tài nào giải quyết tranh chấp; Luật áp dụng giải quyết tranh chấp; Địa điểm tiến hành giải quyết tranh chấp; phân định chi phí trọng tài…
3.2.14. Điều khoản hợp đồng bắt đầu có hiệu lực
Tốt nhất ghi rõ một thời gian cụ thể khi hợp đồng có hiệu lực
VD: Hợp đồng này có hiệu lực ngay sau khi ký hoặc Hợp đồng này sẽ có hiệu lực 7 ngày sau khi ký
4. INCOTERMS – Nguồn luật điều chỉnh cơ bản trong quan hệ hợp đồng thương mại quốc tế
Nội dung Incoterms, xem TẠI ĐÂY
5. Một số tranh chấp liên quan Hợp đồng ngoại thương
Hợp đồng vô hiệu do lỗi hai bên không ngờ tới
Ngày 28/3/2014, Nguyên đơn (một công ty Việt Nam) ký hợp đồng mua của Bị đơn (một công ty Anh) 1000 tấn (MT) (+/-10%) thép phế liệu, giao hàng làm 3 chuyến, đóng trong 29 container với giá 374.000 USD (+/-10%).
Điều 1.5.3 của Hợp đồng nêu: “Thép phế liệu không lẫn tạp chất như… dầu, cao su”. Điều 5 của Hợp đồng quy định: “Bên mua chịu chi phí, có quyền giám định chất lượng/ trọng lượng của hàng hóa sau khi hàng về đến cảng dỡ và/hoặc nhà kho của bên mua bởi các công ty CT1 và CT2.
Kết quả giám định trọng lượng và chất lượng tại kho bãi của bên mua bởi CT1 hoặc CT2 là kết quả cuối cùng và ràng buộc cả hai bên […], phương pháp giám định tạp chất là ước tính bằng thị giá tất cả các container hoặc chọn ít nhất một hoặc hai container bất kỳ …”.
Điều 5.2.1 của Hợp đồng về bồi thường do tạp chất nếu: “… theo trọng lượng giám định thực tế….” nếu trên 5%, bên bán phải lấy lại hàng trong vòng 10 ngày làm việc sau khi được bên mua thông báo và phải chịu mọi chi phí phát sinh liên quan cho việc dỡ và thu hồi hàng từ nhà kho của bên mua và bên báo phải trả lại toàn bộ số tiền trị giá hàng cho bên mua cộng thêm 20% tiền bồi thường […..]
Tại cảng bốc hàng ở Chile, các giấy chứng nhận giám định ghi tạp chất của ba chuyến hàng lần lượt là 3%, 4% và 5%.
Khi nhận hàng, theo yêu cầu của Nguyên đơn, CT1 đã giám định và cấp ba giấy Chứng nhanạ Trọng lượng (Certificate of Weight” ngày 31/07/2014 cho thấy tạp chất (cao su) khảng 1 tấn/container hoặc hơn mà không thể ước tính bằng mắt được.
Sau đó Nguyên đơn đã yêu cầu CT2 giám định và được cấp Giấy chứng nhận chất lượng (Certificate of Grading) ngày 26/7/2014 cho thấy 29,51% tạp chất và có ghi theo Nguyên đơn thì hàng được dỡ từ ngày 25/6 đến 01/7/2014 ra khỏi các container thuộc ba chuyến hàng trên.
Ngày 01/08/2014, Nguyên đơn gửi thư khiếu nại, yêu cầu Bị đơn bồi thường trong vòng 14 ngày nhưng không có kết quả, sau đó Nguyên đơn đã kiện Bị đơn ra trọng tài.
Nguyên đơn cho rằng hàng hóa có tỷ lệ tạp chất lừ 29,51 % theo Giấy chứng nhận chất lượng của CT2 nên Bị đơn đã vi phạm Điều 5 của Hợp đồng, và theo khoản 3 Điều 51 Luật Thương mại 2005 thì Nguyên đơn “có quyền tạm ngừng thanh toán …” vì đã có bằng chứng về việc Bị đơn giao hàng không phù hợp với Hợp đồng. Vi phạm của Bị đơn là vi phạm cơ bản vì Nguyên đơn không đạt được mục đích của Hợp đồng. Theo điều 5.2.1 của Hợp đồng, Nguyên đơn yêu cầu Bị đơn lấy lại hàng và trả lại Nguyên đơn 216.154,89 USD và các chi phí phát sinh, dự tính liên quan.
Bị đơn lập luận rằng quy tắc giao nhận hàng là CFR Incoterms 2010. Vì vậy, Bị đơn đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng khi chuyển giao hàng hóa cho bên vận chuyển chứ không phải khi hàng hóa đến đích. Rủi ro đối với hàn hóa được chuyển từ Bị đơn sang Nguyên đơn theo điều A5 và B5 của CFR Incoterms 2010.
Ba chuyến hàng được giám định tại cảng bốc với tỷ lệ tạp chất tối đa lần lượt là 3%, 4% và 5%. Do đó bị đơn đã giao hàng đúng quy định của Hợp đồng. Nguyên đơn không tuân thủ nghĩa vụ thanh toán theo Điều 50 của Luật thương mại.
Giấy chứng nhận chất lượng của CT2 không hợp lệ vì CT2 xác nhận hàng được dỡ từ ngày 25/6 đến 01/7 ra khỏi những container thuộc ba chuyến hàng. Vì vậy, không thể khẳng định được hàng hóa do CT2 giám định là hàng hóa do Bị đơn giao vì hãng đã nằm trên bãi.
Bị đơn kiện lại, yêu cầu được thanh toán toàn bộ số tiền của Hợp đồng; mọi chi phí, thiệt hại liên quan đến vụ kiện và lợi nhuận đã mất.
Phân tích và Phán quyết của Hội đồng trọng tài
Luật Việt Nam được áp dụng theo Điều 8 của Hợp đồng. Về hiệu lực của Hợp đồng, theo quy định của Pháp luật Việt Nam, tỷ lệ tạp chất không được quá 1% khối lượng phế liệu. Vì vậy, hàng hóa có lượng tạp chất vượt quá 1% không được phép nhập vào Việt Nam. Về hợp đồng, Điều 5.2 quy định rằng nếu tỷ lệ tạp chất từ 2% đến 5% thì bên bán phải cho cho bên mua ở 105% đơn giá. Như vậy, các Bên đã đồng ý mua bán phế liệu với lượng tạp chất từ 2% đến 5% là vi phạm điều cấm của pháp luật. Do đó, Hợp đồng mua bán phế liệu với lượng tạp chất từ 2% đến 5% là vô hiệu theo điều 128 của Bộ luật Dân sự 2005.
Giấy chứng nhận chất lượng của CT2 không có hình ảnh hàng hóa kèm theo. Hội đồng trọng tài cho rằng Giấy chứng nhận chất lượng của CT2 không đủ cơ sở để kết luận hàng hóa nào đã được giám định, hay nói cách khác là Nguyên đơn không thể chứng mình CT2 đã giám định hàng hóa được giao theo Hợp đồng. Do đó, Giấy chứng nhận chất lượng của CT2 không được coi là chứng cứ.
Tại cảng bốc hàng ở Chile, các giấy chứng nhận giám định ghi tạp chất của ba chuyến hàng lần lượt là 3%, 4% và 5% và theo đánh giá của CT1, tạp chất (cao su) của hàng hóa là khoảng 1.0 MT/container.
Hội đồng trọng tài nhận thấy không có cơ sở và không khả thi để giám định lại tỷ lệ tạp chất của hàng hóa; cá bên không yêu cầu làm việc này. Vì vậy, việc xác định tỷ lệ tạp chất chỉ được dựa trên các chứng từ thu thập được. Bị đơn khẳng định tỷ lệ tạp chất từ 3 – 5 %; giám định của CT1 là khoảng 5% (sau khi được quy đổi).
Tỷ lệ này vi phạm Thông tư 01 (không quá 1%) và quy chuẩn kỹ thuật quốc gia số 31 nhưng các bên vẫn đồng ý mua bán nên Hợp đồng “vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật” theo điều 128 của Bộ luật dân sự, dẫn đến hậu quả pháp lý là “các bên khôi phụ lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận ….” (Khoản 2, Điều 137 Bộ luật Dân sự).
Phán quyết của trọng tài nêu rõ: (i) Nguyên đơn phải chuyển giao hàng hóa cho Bị đơn và Bị đơn phải nhận hàng hóa từ Nguyên đơn, việc này phải được thực hiện trong vòng 30 ngày kể từ ngày lập Phán quyết Trọng tài; (ii) Nguyên đơn không phải thanh toán tiền hàng cho Bị đơn, trừ trường hợp không còn hàng để chuyển giao thì phải trả 216.154,84 USD; (iii) Bị đơn phải chịu mọi chi phí về việc tái xuất hàng hóa ra khỏi Việt Nam. Nguyên đơn có trách nhiệm hợp tác và hỗ trợ Bị đơn thực hiện các quy định của pháp luật và xin cấp phép để tái xuất hàng hóa; (iv) Mỗi bên tự chịu chi phí và tổn thất và (v) Bác các yêu cầu khác của Nguyên đơn và đơn kiện lại của Bị đơn.
Vụ kiện cho thấy Hợp đồng vô hiệu do sơ xuất mà các bên không ngờ tới; việc giám định hàng hóa thiếu thận trọng làm mất đi chứng cứ được pháp luật công nhận và Chứng cứ giao hàng theo quy tắc CFR Incoterms 2010 không làm cho người mua mất đi quyền khiếu nại nếu có chứng cứ chứng minh hàng không được giao theo quy định của Hợp đồng.
Tranh chấp về thẩm quyền ký hợp đồng
Ở phần chữ ký ở cuối mỗi hợp đồng thường nêu người đại diện cho mỗi bên. Tranh chấp đã xảy ra khi một bên cho rằng người đại diện không phải là đại diện hợp pháp hoặc chỉ là giám đốc chi nhanh nên hợp đồng không có giá trị thi hành. Diễn biến những vụ tranh chấp dưới đây với phân tích của Hội đồng trọng tài có thể giúp phòng tránh thiệt hại do tranh chấp để bạn đọc tham khảo.
Vụ 1: Có đúng là Hợp đồng được ký bởi người đại diện theo pháp luật hay không?
Hợp đồng mua bán hàng hóa được xác lập giữa Công ty Đài Loan (Nguyên đơn – Bên bán) và Công ty Việt Nam (Bị đơn – Bên mua) năm 2009. Tại hợp đồng, người đại diện cho Bị đơn là ông D.
Khi có tranh chấp, Bị đơn xuất trình giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cấp ngày 30/03/2011 bởi Sở Kế hoạch và Đầu tư có ghi bà N là đại diện theo pháp luật. Do đó, Bị đơn phủ nhận Hợp đồng vì cho rằng Hợp đồng không có giá trị thi hành.
Hội đồng trọng tài nhận thấy cả Nguyên đơn lẫn Bị đơn đều là các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân. Do đó, họ buộc phải tha gia vào các giao dịch thông qua người đại diện. Người này có thể là đại diện theo pháp luật hay đại diện theo ủy quyền được nêu tại Điều 85 của Bộ luật Dân sự năm 2015 theo đó “Đại diện của pháp nhân có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền”.
Hội đồng trọng tài đã yêu cầu xác minh và Sở Kế hoạch đầu tư cho biết ngày 20/7/2005, Bị đơn được cấp đăng ký thay đổi người đại diện theo pháp luật là ông D. Ngày 30/3/2011 Sở Kế hoạch và Đầu tư cấp đăng ký thay đổi ghi bà N là người đại diện theo pháp luật. Hợp đồng được ký ngày 10/10/2009. Như vậy, vào thời điểm ký Hợp đồng, ông D là người đại diện theo pháp luật nên ông D ký hợp đồng là phù hợp với Điều 85 BLDS 2015 nêu trên.
Hợp đồn trọng tài kiết luận: Hợp đồng đã được ký theo đúng quy định của pháp luật, do đó, có giá trị thi hành và ràng buộc Bị đơn theo các quyền và nghĩa vụ nêu trong Hợp đồng.
Vụ 2: Hợp đồng do chi nhánh của công ty ký có hợp pháp không?
Bên bán (Nguyên đơn) và Bên mua (Bị đơn) có tranh chấp về hợp đồng mua bán thép xây dựng (Hợp đồng) do chi nhanh của Bị đơn xác lập.
Bên mua đã thanh toán một phần tiền hàng nhưng không tiếp tục thanh toán phần còn lại theo Hợp đồng. Vì vậy Bên Bán khởi kiện Bên mua tại Trọng tài. Hội đồng Trọng tài đã xem xét để xác định Hợp đồng có ràng buộc Bị đơn hay không.
Hội đồng Trọng tài cho rằng, theo khoản 1 Điều 84 BLDS 2015 thì “Chi nhánh, văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, không phải là pháp nhân” và khoản 2 điều này quy định “Chi nhánh có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của pháp nhân”. Hội đồng trọng tài nhận thấy chi nhánh của Bị đơn có giấy ủy quyền của Tổng giám đốc công ty khi ký hợp đồng. Do đó, công ty (pháp nhân) bị ràng buộc bởi hành vi ký hợp đồng của chi nhánh theo quy định tại khoản 6, điều 84 BLDS 2015 như sau: “Pháp nhân có quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự do chi nhánh, văn phòng đại diện xác lập, thực hiện”.
Trên cơ sở phân tích và lập luận nêu trên, Hội đồng Trọng tài kết luận Hợp đồng được ký hợp pháp và ràng buộc bị đơn, hay nói cách khách là Bị đơn có nghĩa vụ (tiếp tục) thực hiện hợp đồng.
Tranh chấp về chất lượng hàng hóa trong hợp đồng
Công ty Việt Nam bán cho người mua Ba Lan 11 MT chè đen loại D và 10,5 MT chè đen loại PS. Tổng giá trị hợp đồng là 21.695 USD FOB Hải Phòng, Incoterms 1990. Chè phải phù hợp với tiêu chuẩn xuất khẩu: Thủy phần: tối đa 9,0%; Tro: tối đa 6,5 %; Tạp chất: tối đa 0,3%.
Người bán đã yêu cầu Vinacontrol giám định và cấp chứng thư, sau đó hàng đã được gửi từ Hải Phòng đi Gdynia.
Sáu tháng sau khi hàng được dỡ khỏi tàu tại cảng Gdynia, Người mua yêu cầu SGS tại Ba Lan giám định. Kết quả giám định cho thấy 11 MT chè đen loại D có hàm lượng sắt (Ferromagnetic) và hàm lượng tro không tan trong nước quá cao nên lô hàng này đã không được phép nhập khẩu vào Ba Lan vì không thể dùng vào mục đích thực phẩm. Dựa vào kết quả giám định, Người mua tiến hành khiếu nại Người bán.
Ba tháng sau, Người bán mới trả lời và từ chối mọi trách nhiệm liên quan với lý do hàng đã để quá lâu (hơn 6 tháng) kế từ ngày cấp B/L và 2 tiêu chí trên không được các bên thỏa thuận, cam kết trong Hợp đồng.
Xét xử
Trọng tài cho rằng dù 2 tiêu chí này không được qui định trong Hợp đồng nhưng để giải quyết tranh chấp này, Trọng tài không chỉ dựa vào Hợp đồng mà còn căn cứ vào luật áp dụng trong trường hợp “Hợp đồng không qui định hoặc qui định không đầy đủ về những vấn đề liên quan đến tranh chấp phát sinh từ Hợp đồng đã ký kết”.
Căn cứ vào Quyết định số 1343/TM–PC của Bộ trưởng bộ Thương mại Việt Nam về giám định hàng hoá xuất nhập khẩu, cơ sở để giám định là tiêu chuẩn Việt Nam thuộc diện bắt buộc phải áp dụng. Theo tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN 1454– 1993) quy định đối với mặt hàng chè đen rời loại D thì tiêu chuẩn hàm lượng sắt không được lớn hơn 0,001%. Căn cứ theo biên bản giám định do SGS cấp, các tiêu chí đều phù hợp với Hợp đồng, có 2 tiêu chí không được qui định trong Hợp đồng là hàm lượng tro không tan trong nước (11,14%) và hàm lượng sắt (6,05g/kg tương đương 0,00605%).
Người bán không thể viện vào lý do hàng để quá lâu vì cho dù có để lâu hơn nữa (thậm chí là hơn 6 tháng) thì 2 hàm lượng đó không thể thay đổi (tăng lên hoặc giảm xuống). Vì vậy, trọng tài cho rằng Người bán phải chịu trách nhiệm về việc giao hàng không phù hợp với tiêu chuẩn xuất khẩu của Việt Nam đối với chè đen loại D.
Ngoài ra theo yêu cầu của Trọng tài, Vinacontrol đã gửi cho Trọng tài văn bản giải trình về phẩm chất lô chè liên quan đến chứng thư giám định do Vinacontrol cấp, trong đó khẳng định rõ rằng chính Vinacontrol cũng đã lưu ý với Người bán về hàm lượng sắt của lỗ chè loại D cao hơn mức bình thường và Người bán đã trả lời sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc này nếu bị khiếu nại.
Trọng tài đã quyết định buộc Người bán phải hoàn trả cho Người mua 8.778 USD tiền hàng và 1.850 USD tiền cước phí từ Hải Phòng đến Gdynia.
Bình luận
Sau thời điểm giao hàng, nếu có rủi ro xảy ra làm tổn thất hàng hóa thì không còn thuộc trách nhiệm của người bán nữa. Tuy nhiên, khi hàng hóa tới cảng đến, người mua sẽ giám định hàng hóa và nếu thấy hàng hóa không đảm bảo chất lượng thì bên mua sẽ lập Biên bản giám định (Survey Report) và xác định nguyên nhân. Nếu hàng kém chất lượng do một nguyên nhân xảy ra trong quá trình vận chuyển thì người mua phải chịu. Nhưng nếu hàng đã kém chất lượng hoặc bị giảm chất lượng do nguyên nhân có từ trước khi giao hàng (ví dụ như người bán đóng gói bao bì không đúng qui cách khiến hàng bị hấp hơi nước), người bán phải chịu trách nhiệm.
Tranh chấp về chất lượng hàng không phù hợp khi kiểm tra trước khi giao hàng theo hợp đồng FOB
Tranh chấp về nghĩa vụ thanh toán tiền hàng
Một công ty ở Hong Kong ký hợp đồng với một công ty Việt Nam mua 5.000 MT gạo trắng loại 5% tấm với giá 340 USD/ MT FOB cảng Sài Gòn hoặc Cần Thơ, thanh toán bằng L/C không huỷ ngang, giao hàng trong vòng 25 ngày kể từ ngày bên bán nhận được L/C. Người mua uỷ thác cho Người bán thuê tàu chở hàng và tiền cước thanh toán bằng TTR
Công ty Macao mua lại lô hàng đó của Người mua đã mơ L/C tại Ngân hàng thương mại Macao cho Người bán thụ hưởng. Sau khi nhận được L/C, Người bán đã thuê tàu và giao 5.000 MT gạo trị giá 1.700.000 USD vào ngày 20/ 8/ 1995.
Hàng đã được dỡ và lưu kho tại cảng đến, nhưng một phân hàng đã bị ẩm từ trong hầm tàu và bị hư hỏng. Người mua Macao không chấp nhận bộ chứng từ để đi nhận hàng với lý do bộ chứng từ không hợp lệ.
Ngày 25/ 10/ 1995 Người mua thông báo cho Người bán rằng người mua Macao mua lại lô hàng (người thứ ba) sẽ chấp nhận bộ chứng từ dù không hợp lệ và thanh toán trước cho Người bán 1.200.000 USD để lấy bộ chứng từ đi nhận hàng và sẽ khiếu nại công ty bảo hiểm bồi thường tổn thất. Nếu người mua Macao đòi được tiền bảo hiểm thì sẽ thanh toán tiếp cho Người bán, nếu số tiền được bảo hiểm bồi thường ít hơn 500.000 USD thì người mua Macao sẽ thương lượng với Người bán để giải quyết. Người mua lưu ý rằng nếu Người bán không đồng ý với phương án giải quyết này mà hàng để lâu trong kho cảng tiếp tục bị tổn thất thì Người bán phải chịu trách nhiệm cho những tổn thất đó.
Người bán thông báo bằng fax cho người mua Hong Kong đồng ý nhận thanh toán trước 1.200.000 USD, nhưng yêu cầu rằng phần tiền hàng còn lại (500.000 USD) phải được thanh toán trong vòng 10 ngày sau lần thanh toán thứ nhất.
Trên thực tế, Người bán đã nhận được 1.200.000 USD, sau đó tiếp tục đòi người mua Macao trả tiếp 500.000 USD, nhưng không được giải quyết, Người bán quay lại đòi Người mua.
Người mua cho rằng người bán đã chấp nhận L/C mở theo yêu cầu của người mua Macao (người thứ ba) thì cũng có nghĩa là Người bán đã chấp nhận việc chuyển nghĩa vụ trả tiền từ Người mua sang người thứ ba cho nên không chịu trách nhiệm về việc người thứ ba trả thiếu tiền hàng cho Người bán. Ngoài ra, Người bán đã đồng ý nhận 1.200.000 USD trả trước theo đề xuất của người thứ ba, vì vậy số tiền còn lại Người bán phải đòi người thứ ba trả tiếp, nếu đòi không được thì đi kiện người thứ ba chứ không thể đòi Người mua; một khi nghĩa vụ của Người mua đã chuyên hoàn toàn sang cho người thứ ba thì Người mua không phải chịu trách nhiệm về việc trả tiền hàng theo Hợp đồng.
Người bán sau đó vẫn tiếp tục đòi cả Người mua lẫn người mua Macao phần tiền hàng còn lại nhưng không đạt kết quả, Do đó, Người bán đã kiện ra Trọng tài đòi Người mua phải trả:
– 500.000 USD tiền hàng
– tiền lãi thanh toán chậm 40 ngày đối với số tiền 1.200.000 USD và tiền lãi thanh toán chậm 500.000 USD cho đến ngày thanh toán thực tế.
Người mua trình bày trong bản giải trình rằng việc gạo bị ẩm ướt dẫn đến việc phải đi đòi bảo hiểm thực tế là do chính Người bán đã bất cẩn trong việc thuê tàu. Vì thế Người bán cũng phải chịu trách nhiệm đối với việc này. Ngoài ra, Người mua trên thực tế vẫn có thiện chí đốc thúc người mua Macao trả phần tiền còn lại cho Người bán nhưng công ty này chưa thể trả được vì công ty bảo hiểm chưa bồi thường tổn thất. Về trách nhiệm của mình, Người mua nhắc lại lập luận rằng Người bán chấp nhận lấy trước 1.200.000 USD từ người thứ ba thì họ coi như hết nghĩa vụ trả tiền hàng, nghĩa vụ này đã được chuyển cho người thứ ba.
Xét xử
- Về việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền hàng (thông qua người thứ ba hay là chuyển nghĩa vụ sang người thứ ba?)
Trọng tài quyết định rằng trong trường hợp này Người mua không được giải phóng khỏi nghĩa vụ trả tiền hàng theo Hợp đồng và do đó, vẫn có trách nhiệm trả phần tiền hàng còn lại cho Người bán với lý do: Về nguyên tắc, trong hợp đồng mua bán hàng hoá, người mua có nghĩa vụ trả tiền hàng. Người mua có thể tự thực hiện nghĩa vụ, hoặc uỷ quyền cho người thứ ba thay mình trả tiền (tức là thực hiện nghĩa vụ trả tiền thông qua người thứ ba) hoặc chuyển hoàn toàn nghĩa vụ này sang cho một người thứ ba với sự chấp thuận minh thị của người bán (gọi là thế nghĩa vụ).
Trong trường hợp này, việc người thứ ba (người mua Macao) trả tiền thay cho Người mua chỉ có thể coi như việc uỷ quyền trả tiền thông thường chứ không thể coi như thế nghĩa vụ vì giữa ba bên (người bán, người mua và người mua lại) chưa hề có thoả thuận gì rõ ràng về việc thể nghĩa vụ). Việc người mua Macao mở L/C và thực tế đã trả 1.200.000 USD cũng như việc Người bán chấp nhận L/C và nhận tiền không thể là căn cứ để xác định rằng trong trường hợp này đã có thế nghĩa vụ giữa Người mua và người mua Macao.
Theo qui định về uỷ quyền, người uỷ quyền vẫn phải trực tiếp chịu trách nhiệm đối với hành vi của người được uỷ quyền. Do đó, trong vụ việc này, Người mua phải có trách nhiệm đối với việc trả tiền hàng của người mua Macao. Người mua Macao đã thay Người mua trả cho Người bán 1.200.000 USD trong tổng số 1.700.000 USD tiền hàng. Do đó, Người mua phải chịu trách nhiệm về việc chưa trả 500.000 USD cho Người bán.
Trọng tài bác lập luận của Người mua về lỗi của Người bán liên quan tới sự kiện thuê tàu và về việc tiền bảo hiểm chưa được thanh toán để trì hoãn trả 500.000 USD với lý do:
– Sau khi thuê tàu, bốc hàng lên tàu và lấy được vận đơn hoàn hảo đã xếp hàng thì Người bán đã thực hiện xong việc nhận uỷ thác thuê tàu và giao hàng, vì thế Người bán không phải chịu trách nhiệm về tổn thất của hàng ở cảng đến.
– Việc đòi công ty bảo hiểm bồi thường tổn thất là quan hệ pháp lý (hợp đồng bảo hiểm) độc lập với nghĩa vụ trả tiền hàng, do vậy, người mua không thể coi việc thanh toán tiền bảo hiểm của công ty bảo hiểm là một điều kiện để trả tiền hàng.
- Về tiền lãi
Trọng tài bác tiền lãi do chậm thanh toán 40 ngày đối với khoản tiền 1.200.000 USD vì: Việc chậm thanh toán 1.200.000 USD là do lỗi của Người bán đã để có những sai sót về chứng từ. Thời gian chậm thanh toán đó là thời gian các bên thoả thuận thương lượng về cách giải quyết những bất hợp lệ trong chứng từ, về số tiền mà Người mua có thể trả để lấy vận đơn đi nhận hàng.
Về tiền lãi do chậm thanh toán 500.000 USD: Người thứ ba đã đề xuất trả trước 1.200.000 USD, số 500.000 USD còn lại sẽ thanh toán khi đòi được công ty bảo hiểm bồi thường. Người bán đồng ý nhận trước 1.200.000 USD, còn lại 500.000 USD phải được thanh toán trong vòng 10 ngày kể từ ngày thanh toán 1.200.000 USD. Người mua biết việc này nhưng không có ý kiến gì. Như vậy, rõ ràng giữa Người bán và Người mua (cũng như người thứ ba) chưa thống nhất được thời hạn thanh toán 500.000 USD. Hơn nữa, trong các lần đòi Người mua thanh toán 500.000 USD, Người bán không nêu ra thời hạn thanh toán, phương thức thanh toán, không chỉ định tài khoản. Từ đó, Trọng tài xác định không có đủ căn cứ hợp pháp để bắt Người mua trả tiền lãi của 500.000 USD.
Bình luận
Trong một quan hệ pháp lý, nếu người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba (uỷ quyền cho người thứ ba thực hiện nghĩa vụ của mình) thì vẫn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện của người thứ ba đó. Nếu người thứ ba không thực hiện, hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ thì người có nghĩa vụ phải tiếp tục thực hiện hoặc phải trực tiếp chịu trách nhiệm trước người có quyền.
Nếu người có nghĩa vụ chuyển nghĩa vụ cho người thứ ba thì người thứ ba này trở thành người có nghĩa vụ trước người có quyền còn người có nghĩa vụ ban đầu thì hoàn toàn được giải phóng nghĩa vụ nói trên. Do đó, nếu người thứ ba vi phạm nghĩa vụ thì người có quyền đòi người thứ ba chịu trách nhiệm, chứ không được đòi người có nghĩa vụ ban đầu. Theo qui định, việc chuyển nghĩa vụ phải có sự chấp thuận của cả ba bên: người có nghĩa vụ, người thứ ba và người có quyền. Thông thường, việc chuyển nghĩa vụ nên được thực hiện thông qua hình thức văn bản để tránh những tranh chấp có thể phát sinh sau này liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên.
Tranh chấp do từ chối nhận hàng theo hợp đồng
Hợp đồng ký kết ngày 29/ 6/ 1994, theo đó Người bán giao giấy gói kẹo có in nhãn và tên Người mua theo điều kiện CIF Hải Phòng, giao hàng từng chuyến. Mở L/C và giao hàng chuyến thứ nhất theo phụ lục số 1. Người mua sẽ thông báo cho Người bán bằng telex hoặc fax về việc mở L/C và giao hàng các chuyến sau với thời gian giao hàng là 20 ngày sau khi mở L/C.
Các bên đã thực hiện giao hàng và thanh toán 2 chuyến hàng. Ngày 11/ 02/1995 Người bán gửi fax cho Người mua thông báo đã sản xuất xong lô hàng trị giá 77.705 USD và yêu cầu Người mua mở L/C để giao hàng tiếp. Ngày 17/ 5/ 1995, Người mua gửi telex đồng ý nhận lô hàng đó làm hai đợt, đợt đầu vào giữa tháng 6/ 1995 còn đợt hai sẽ thông báo sau. Nhưng ngày 19/6/1995, Người mua lại thông báo cho Người bản từ chối nhận lô hàng nêu trên với lý do là kẹo không bán được trên thị trường Hà Nội, số lượng kẹo đã sản xuất của Người mua rất lớn, dây chuyền sản xuất kẹo ngừng hoạt động nên không thể nhập khẩu giấy gói kẹo nữa. Vì vậy, lô hàng của Người bán vẫn nằm trong kho.
Ngày 31/ 12/ 1996, Người bán khởi kiện đòi người mua bồi thường thiệt hại gồm:
– 83.185 USD trị giá lô hàng đã được sản xuất xong chờ để giao nhưng bị từ chối nhận
– 39.989 USD trị giá số nguyên liệu dự trữ trong kho nhằm thực hiện hợp đồng
– 20.000 USD chi phí chung như chi phí pháp lý, chi phí cho mất thời gian.
Sau khi nhận được đơn kiện, Người mua kiện lại Người bán về việc Người bán giao hàng chậm đợt một và đợt hai. Thời hạn giao hàng đợt một chậm nhất ngày 22/ 8/ 1994 nhưng Người bán đã không thực hiện đúng. Lô hàng cuối cùng của đợt một đến Hải Phòng ngày 9/ 11/ 1994, hơn nữa, hàng bị giao thiếu là 5.820 USD. Người bán giải thích rằng theo thoả thuận sau khi mở L/C mới cho sản xuất hàng nên xin cáo lỗi về sự chậm trễ và giao hàng thiếu.
Thời hạn giao hàng đợt hai chậm nhất ngày 25/ 02/ 1995 nhưng mãi đến ngày 07/ 4/ 1995 hàng mới về đến Hải Phòng, đồng thời hàng bị giao thiếu trị giá 11.641 USD và giao không đồng bộ. Người mua đòi Người bán bồi thường do hàng giao chậm gây thiệt hại cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, cụ thể là:
– Đợt một: 398.862.000 VND theo Biên bản xác định tổn thất được lập giữa Người mua và Xí nghiệp sản xuất kẹo.
– Đợt hai: 502.585.000 VND theo Biên bản xác định tồn thất được lập giữa Người mua và Xí nghiệp sản xuất kẹo.
Xét xử
- Về việc từ chối nhận hàng của Người mua:
Để thực hiện hợp đồng mua bán, thực tế hai bên đã ký Annex 1 và Annex 2. Trên cơ sở các Annex này hai bên đã mở L/C và giao hàng hai đợt. Như vậy, các Annex do hai bên ký là căn cứ để các bên mở L/C và giao hàng từng đợt. Vì thế, để tiến hành mở L/C và giao hàng đợt ba, hai bên phải ký kết Annex 3. Tuy hai bên chưa ký Annex 3, nhưng bằng fax ngày 11/ 4/ 1995, Người bán đã đề nghị giao lô hàng đợt ba với trị giá là 77.705 USD, và bằng telex ngày 17/ 5/ 1995, Người mua đã đồng ý mua lô hàng này và nhận hàng giao hai lần. Như vậy, có thể kết luận là giữa các bên đã có thoả thuận mua lô hàng thứ ba. Từ đó, Người mua phải có nghĩa vụ mở L/C và nhận lô hàng này.
Việc Người mua từ chối nhận lô hàng đợt ba bằng telex ngày 19/ 6/ 1995 là vi phạm thoả thuận mua bán đợt ba giữa hai bên. Lý do mà Người mua nêu ra để từ chối nhận hàng không được Trọng tài chấp nhận là căn cứ miễn trách nhiệm bởi vì kẹo không bán được trên thị trường Hà Nội, số lượng kẹo do Người mua sản xuất ra còn rất lớn, dây chuyền sản xuất kẹo ngừng hoạt động không phải là trường hợp bất khả kháng và cũng không phải do lỗi của Người bán gây nên. Từ đó, Người mua phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh cho Người bán,
- Về số tiền thiệt hại do Người bán đòi
– Về 83,185 USD là giá trị lô hàng bị từ chối nhận:
Về nguyên tắc, khi từ chối nhận hàng gây thiệt hại cho Người bán thì Người bán có quyền đòi bồi thường. Muốn được bồi thường thiệt hại thì Người bán phải chứng minh thiệt hai và xuất trình các chứng từ làm bằng chứng. Trong trường hợp này, Người bán không chứng minh thiệt hại thực tế phát sinh, không cung cấp các chứng từ làm bằng chứng cho thiệt hại mà coi trị giá lô hàng bị từ chối nhận là thiệt hại để đòi Người mua bồi thường.
Thông thường khi Người mua từ chối nhận hàng, Người bán có quyền và phải bán lô hàng đó cho người khác, nếu giá cao hơn giá hợp đồng ký với Người mua thì Người bán được hưởng, nếu giá thấp hơn thì có quyền đòi Người mua bồi thường chênh lệch cộng với các chi phát sinh như chi phí lưu kho, chi phí liên quan đến bán lại lô hàng chứ không có quyền đòi bồi thường toàn bộ trị giá lô hàng. Nhưng trong trường hợp này giấy gói kẹo được sản xuất ra đã mang nhãn, tên cụ thể nên Người bán không thể bán cho ai khác, bởi không ai có thể sử dụng được, trừ Người mua. Vì thế, Người bán có quyền đòi Người mua trả tiền toàn bộ trị giá lô hàng với điều kiện là Người bán phải giao lô hàng đó cho Người mua. Vì lô hàng còn đang nằm trong kho của Người bán nên Trọng tài quyết định buộc Người mua phải bồi thường cho Người bán trị giá lô hàng là 77.705 USD chứ không phải là 83.185 USD như Người bán đòi, đồng thời buộc Người bán phải giao lô hàng ứng với 77.705 USD theo điều kiện CIF Hải Phòng cho Người mua trừ khi Người mua không muốn nhận lô hàng này nữa.
– Về 39.989 USD là trị giá số nguyên liệu dự trữ trong
Theo bản fax ngày 15/ 9/ 1996 của Người bán gửi cho Người mua thì số nguyên liệu có trị giá 39.989 USD đã được Người bán dùng vào sản xuất ra thành phẩm có trị giá là 77.705 USD để giao cho Người bán nhưng chưa giao được.
Như vậy, trị giá của số nguyên liệu này đã nằm trong trị giá của lô hàng bị từ chối nhận, do đó Người bán không có căn cứ hợp lý để đòi bồi thường số tiền này. Từ đó, Trọng tài bác yêu
cầu đòi bồi thường 39.989 USD của Người bán.
– Về chi phí chung 20.000 USD:
Chi phí pháp lý cho vụ kiện như chi phí tư vấn pháp lý, chi phí thuê luật sư, Người bán có quyền đòi Người mua bởi thường nhưng Người bán đã không xuất trình các chứng từ chứng minh, cũng không chỉ ra được chi phí cụ thể là bao nhiêu trong số 20.000 USD.
Chi phí do mất thời gian là chi phí gì, gồm bao nhiêu, Người bán không chứng minh được trong hồ sơ kiện cũng như tại phiên xét xử.
Từ hai lý do nêu trên, Trọng tài bác yêu cầu đòi bồi thường chi phí chung 20.000 USD của Người bán.
- Về việc giao hàng chậm của Người bán
Theo L/C mở cho Annex 1, Người bán phải giao hàng chậm nhất ngày 22/ 8/ 1994. Thực tế theo các vận đơn, Người bán đã giao hàng vào các ngày 9/ 9, ngày 16/ 9, ngày 3/ 10 và ngày 18/ 10/ 1994. Như vậy, Người bán đã giao chậm cả lô hàng theo Annex (giao chậm đợt một), hơn nữa còn giao thiếu hàng trị giá 5.820 USD. Tại phiên họp xét xử, Người bán trình bày nguyên nhân giao hàng chậm là do Người mua đề nghị tăng lượng hàng. Trọng tài không chấp nhận nguyên nhân này là căn cứ miễn trách cho việc giao hàng chậm, bởi vì Người bán không có văn bản đồng ý tăng số lượng và hai bên cũng không sửa đổi số lượng của Annex I. Vì vậy, Người bán phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại do việc giao hàng chậm gây ra.
Theo qui định của Annex 2 và L/C, Người bán phải giao hàng chậm nhất ngày 25/ 2/ 1995. Thực tế Người bán giao đầu vào ngày 9/ 2/ 1995 trị giá 20.628 USD, lô thứ hai vào ngày 19/ 3/ 1995 trị giá 8.395 USD. Như vậy, Người bán đã giao chậm lô thứ hai (thuộc đợt hai) là 24 ngày, giao thiếu hàng trị giá 11.641 USD. Giao chậm và giao thiếu hàng nhưng không chứng minh được là đã có căn cứ miễn trách thì Người bản phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại phát sinh.
- Về sổ tiền thiệt hại do Người mua đòi Người bán bồi thường
– Về 398.862.000 VND do giao chậm và giao thiếu hàng đợt một:
Căn cứ vào các tài liệu, kế hoạch sản xuất, hợp đồng bán kẹo cho khách hàng nội địa, Trọng tài xác định được rằng việc giao chậm và giao hàng thiếu của Người bán chỉ làm cho Người mua ngừng sản xuất trong 6 ngày, không sản xuất được 11.720 kg kẹo để giao đủ cho khách hàng nội địa. Từ đó, Trọng tài tính số tiền thiệt hại thực tế, hợp lý mà Người mua đang phải chịu là 57.380.200 VND và quyết định buộc Người bán phải bồi thường số tiền này cho Người mua.
– Về 502.585.000 VND do giao chậm và giao thiếu hàng đợt hai:
Căn cứ vào các tài liệu, kế hoạch sản xuất, hợp đồng bán kẹo, các chứng từ do các bên xuất trình, Trọng tài xác định rằng việc giao hàng chậm và giao thiếu hàng của Người bán làm cho Người mua không thực hiện được kế hoạch sản xuất và tiêu thụ trong thời gian 30 ngày, không sản xuất được 47.620 kg kẹo để giao cho khách hàng nội địa. Từ đó, Trọng tài tính được số tiền thiệt hại thực tế mà Người mua phải chịu là 227.197.000 VND. Vì vậy, Trọng tài quyết định buộc Người bán phải bồi thường cho Người mua 227.197.000 VND và bác các yêu cầu còn lại của Người mua.
Bình luận
Khi vi phạm hợp đồng, bên vi phạm luôn nêu ra các lý do để thoái thác trách nhiệm, kể cả lý do chủ quan và khách quan. Do vậy, bên bị vi phạm phải căn cứ vào hợp đồng và luật áp dụng cho hợp đồng để bác những lý do đòi miễn trách không xác đáng. Chỉ khi nào việc vi phạm hợp đồng do chính những căn cứ miễn trách được qui định trong hợp đông hoặc trong luật gây nên thì bên vi phạm mới được miễn trách nhiệm.
Khi đòi người mua bồi thường thiệt hại thì người bán phải chứng minh thiệt hại, phải cung cấp tài liệu, chứng từ chứng minh cho số thiệt hại đó. Những thiệt hại đòi bồi thường phải có thực và xác định được. Nếu không có chứng từ làm bằng chứng cho thiệt hại thì yêu cầu đòi bồi thường sẽ bị bác. Trong vụ kiện này, Người bán đòi bồi thường 20.000 USD chi phí chung nhưng không có căn cứ, không có chứng từ chứng minh nên đã bị Trọng tài bác yêu cầu. Mặt khác, chỉ đòi bồi thường những thiệt hại thực tế hợp lý, không nên kê khai những thiệt hại ước lượng, không thực tế, bởi vì Người mua cũng như Trọng tài luôn luôn không thừa nhận những thiệt hại gián tiếp, không có thực, không hợp lý. Trong trường hợp nêu trên, Người mua đòi bồi thường 901.447.000 VND nhưng chỉ được Trọng tài chấp nhận 284.577.200 VND. Như vậy, Người mua đòi bồi thường số tiền quá lớn, không thực tế và không hợp lý, kết quả là không được đáp ứng hết mà còn phải tự chịu phần phí Trọng tài tương ứng với số tiền không được đáp ứng.
Tranh chấp do đóng gói bao bì không thích hợp trong hợp đồng
Năm 1994, công ty MH của Việt Nam ký hợp đồng xuất khẩu tôm đông lạnh cho công ty TL của Nhật Bản. Đây là khách hàng quen thuộc, thường mua với số lượng lớn từ nhiều năm. TL ký hợp đồng bán lại cho công ty K tại Nhật và yêu cầu K mở L/C cho MH thụ hưởng. Hàng được giao tại cảng Năm Căn, Minh Hải theo điều kiện CFR Tokyo.
Hàng hoá đã được bốc lên tàu NH của Xí nghiệp Vận tải Biển H và Người bán đã nhận được B/L hoàn hảo. Khi tàu NH đang chờ bốc hàng của chủ hàng khác thì tàu bị cháy, lửa phát ra từ phòng thuỷ thủ làm cháy toàn bộ phòng thuỷ thủ và phỏng lái.
Khi được tàu NH thông báo về vụ cháy, Người bán thông báo cho Người mua biết và mời Vinacontrol giám định. Kết quả giám định là hàng hoá vẫn đảm bảo chất lượng, chỉ có một số thùng hàng sau khi dỡ lên kho tại cảng Năm Căn bị hư hại bao bì. Người mua đề nghị Người bán đóng gói lại bao bì và chuyển hàng sang tàu khác để đảm bảo giao hàng đúng hạn cho người mua lại tại Nhật Bản. Vì Người mua là khách hàng quen thuộc nên Người bán đồng ý. Tàu NH cũng đồng ý chịu chi phí đóng gói lại bao bì (mua 400 thùng bao bì của Người bản và thuê nhân công tại cảng đóng gói) và chuyển hàng sang tàu S7 để chuyên chở sang Nhật Bản với điều kiện huỷ B/L của tàu NH và nhận B/L sạch của tàu S7.
Khi hàng hoá đến Nhật Bản, Người mua khiếu nại có 360 thùng bị lẫn lộn kích cỡ tôm nên phải bán theo giá của cỡ tôm nhỏ nhất. Người mua khiếu nại Người bán bồi thường thiệt hại tương đương 80 triệu VND. Để giữ quan hệ, Người bán đã bồi thường cho Người mua đồng thời khiếu nại Xí nghiệp Vận tải Biển H và công ty BV bảo hiểm cho tàu NH bồi thường. Xí nghiệp Vận tải Biển H và công ty bảo hiểm BV đều hưa giải quyết nhưng vì thuyền trưởng tàu NH đã bị đình chỉ công tác sau khi tàu bị cháy nên không liên hệ được, nội dung sự việc không được bàn giao rõ nên chưa thể giải quyết được. Sự vụ đi vào ách tắc.
Bình luận
Người bán lẽ ra có thể sử dụng B/L do tàu NH phát hành để chiết khấu tại ngân hàng. Nếu vì mối quan hệ với Người mua, theo yêu cầu của Người mua đóng gói lại bao bì thì Người bán phải cử nhân viên trực tiếp giám sát thì sẽ không có sự lẫn lộn trong đóng gói bao bì. Do tàu NH thuê công nhân bốc xếp là những người không có chuyên môn để thay bao bì nên mới xảy ra lẫn lộn kích cỡ tôm trong cùng một thùng.
Tranh chấp về giám định hàng tại cảng dỡ
Tranh chấp về trách nhiệm bồi thường do quyết định của cơ quan có thẩm quyền theo hợp đồng
Một doanh nghiệp dịch vụ logistics (“Doanh nghiệp logistics”) làm dịch vụ giao nhận, vận chuyển một lô hàng đóng trong container (chở bằng tàu container) nhập khẩu từ Mỹ về Việt Nam theo điều kiện FOB Chalotte, NC, USA Incoterms 2010, chuyển tải (tranship) tại Shekou, Trung Quốc. Khi hàng đến cảng Shekou, hãng tàu vận chuyển lô hàng (bằng đường biển) thông báo cho Doanh nghiệp logistics rằng theo quy định mới của Việt Nam, không được phép nhập khẩu bao tải cấu (jumbo bag) đã qua sử dụng và để được chuyển tiếp về Việt Nam thì Doanh nghiệp logisstics phải đặt cọc một khoản tiền cho hãng tàu để đề phòng rủi ro pháp lý liên quan đến họ. Doanh nghiệp logistics đã cập nhật đầy đủ tình hình vận chuyển của lô hàng và nhiều lần liên hệ với khách hàng (người giao hàng, người nhận hàng) để yêu cầu đặt cọc nhưng khách hàng không trả lời. Đến cuối tháng 6/ 2019 hãng tàu cho biết đã tiêu hủy lô hàng ở Hong Kong với chi phí phát sinh hơn 21.000 USD.
Doanh nghiệp logistics căn cứ vào quy định trên vận đơn thứ cấp (House B/L) đòi người giao hàng/người nhận hàng trả toàn bộ chi phí phát sinh do lô hàng bị tiêu hủy, và từ chối yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại theo vận đơn chủ (Master B/L) của hãng tàu nhưng không đạt kết quả. Người giao hàng/người nhận hàng có phải chịu trách nhiệm về thiệt hại này không? Hãng tàu có quyền yêu cầu Doanh nghiệp logistics thanh toán chi phí phát sinh do lô hàng bị tiêu hủy không?
Bình luận
Các bên thường lúng túng, thậm chí kiện nhau ra trọng tài chỉ vì không biết là bên vi phạm hợp đồng có phải chịu trách nhiệm trong trường hợp có hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng. Những vụ việc trên đây cẩn tham khảo và xử lý tình huống kịp thời, theo quy định của pháp luật.
Quyết định của cơ quan có thẩm quyền như công văn số 7454/TCHQ- GSQL, ngày 26/12/2018 về điều kiện nhập khẩu bao tải cẩu đã qua sử dụng của Tổng cục Hải quan đối với vụ việc lô hàng bị tiêu huỷ tại Hong Kong làm phát sinh chi phí đối với hãng tàu và Doanh nghiệp Logistics; thiệt hại về hàng hóa đối với người giao hàng, người nhận hàng vì Doanh nghiệp Logistics có quan hệ hợp đồng với với tư cách là người nhận hàng theo vận đơn chủ và là người chuyên chở/ thay mặt người chuyên chở theo vận đơn thứ cấp.
Các bên trong không được tiếp tục thực hiện hợp đồng, ngay cả khi một bên không chấm dứt hợp đồng thì bên kia cũng buộc phải chấm dứt hợp đồng để thực hiện quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Như vậy, có việc vi phạm hợp đồng của Doanh nghiệp Logistics, người giao hàng, người nhận hàng trong vụ nhập bao tải cẩu. Tuy vậy, không bên nào phải chịu trách nhiệm bồi thường vì việc không thực hiện đúng hợp đồng là do quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà khi ký kết hợp đồng các bên không thể biết theo quy định tại khoản 1 Điều 294 Luật Thương mại năm 2005 như sau:
“Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây: […] đ) Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.”
Cần lưu ý là để được hưởng miễn trách, bên vi phạm có nghĩa vụ thông báo kịp thời và chứng minh miễn trách theo quy định tại Điều 295 Luật Thương mại năm 2005:
“1. Bên vi phạm hợp đồng phải thông bảo ngay bằng văn bản cho bên kia về trường hợp được miễn trách nhiệm và những hậu quả có thể xảy ra.
- Khi trường hợp miễn trách nhiệm chấm dứt, bên vi phạm hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết; nếu bên bên kia thì phải bồi thường thiệt hại. vi phạm không thông báo hoặc thông báo không kịp thời cho
- Bên vi phạm có nghĩa vụ chứng minh với bên bị vi phạm về trường hợp miễn trách nhiệm của mình.”.
Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm, bên kia (bên không vi phạm) cũng không có lỗi nhưng phải chịu thiệt hại, chi phí phát sinh từ một quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Có thể coi đây là rủi ro đối với các bên có liên quan xuất phát từ quyết định của cơ quan công quyền.
Không ai có lỗi mà một bên chịu toàn bộ thiệt hại thì cũng không công bằng xét trên quan điểm thiện chí trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Cách giải quyết “có lý, có tình” là các bên cùng nhau chia sẻ tổn thất trên tinh thần hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau cùng chịu rủi ro. Đây cũng là hướng mà nhiều cơ quan Trọng tài, Tòa án thường khuyên các bên thương lượng, hòa giải trước khi xét xử./.
Tranh chấp do hợp đồng không qui định sự kiện bất khả kháng
Tháng 02/ 2008, công ty TN (Thành phố Hồ Chí Minh) ký Hợp đồng với công ty nước ngoài SY mua 5.000 tấn phân urê, giao hàng chậm nhất ngày 30/ 5/ 2008. Như thường lệ, hai bên chỉ chú ý thương lượng về giá cả, phương thức thanh toán, thời hạn giao hàng. Sau khi gửi email, fax qua lại nhiều lần, Hợp đồng mua bán được ký kết chỉ vỏn vẹn hai trang giấy đánh máy, chỉ nêu những điều khoản chính!
Tháng 3/ 2008, TN đã mở tín dụng thư cho SY, đồng thời ký hợp đồng bán lại toàn bộ lô hàng cho Công ty M (Tiền Giang). Đến ngày 02/ 6/ 2008 đã hết hạn giao hàng nhưng vẫn không thấy SY giao hàng. Tại thời điểm này giá phân urê trên thị trường quốc tế đã lên cao hơn 30-40% so với giá khi ký hợp đồng. Thị trường nội địa cũng đang lên cơn sốt giá phân bón. Khách mua hàng ở Tiền Giang thúc giục TN giao hàng và ra tối hậu thư nếu trong thời hạn bảy ngày không giao hàng, họ sẽ kiện ra tòa đòi phạt vi phạm hợp đồng đến 8% giá trị lô hàng và bồi thường toàn bộ thiệt hại.
Giải quyết
Giám đốc TN như ngồi trên lò lửa ra lệnh cho nhân viên liên tục gọi điện thoại, gửi email, fax cho SY giục giao hàng, đối tác nước ngoài dường như… làm ngơ! Một tuần sau, SY gửi văn bản trả lời, nhưng câu trả lời của họ làm giám đốc TN muốn lên huyết áp! Họ thông báo do cơn bão tràn vào xứ họ làm nhà máy sản xuất urê bị hư hỏng nặng nên không thể giao hàng được. TN gửi email khiếu nại. SY thông báo hoãn giao hàng sáu tháng, còn nếu TN không đồng ý thì xin hủy hợp đồng. Viện lý do bão tố là “sự kiện bất khả kháng” nên SY cho rằng không có trách nhiệm bồi thường!
Cơn bão có thật nhưng liệu đó có phải là cái cớ vì giá phân urê đang tăng rất cao? Giám đốc TN ra lệnh cho nhân viên thu thập hồ sơ, chứng cứ để chuẩn bị kiện đối tác nước ngoài đòi bồi thường. Nhưng khi xem lại hợp đồng ký giữa hai bên thì hỡi ôi, trong đó lại không có điều khoản nào quy định về sự kiện bất khả kháng (SKBKK), luật áp dụng và phương thức giải quyết tranh chấp. Vậy bây giờ phải làm sao để bác bỏ cái gọi là SKBKK do đối tác đưa ra, buộc họ phải bồi thường? Phải kiện ở tòa án nước ngoài hay trong nước? Áp dụng luật nào để giải quyết tranh chấp?
Phòng kế hoạch hiến kế kiện đối tác nước ngoài ra tòa án quốc tế, và dùng luật thương mại quốc tế để đòi bồi thường. Đó có vẻ là một ý kiến hay, nhưng nghĩ kỹ lại mới thấy không thể thực hiện được! Trong buôn bán quốc tế không có một bộ luật thương mại nào đương nhiên áp dụng. Chỉ có các tập quán giao dịch thương mại hoặc các công ước quốc tế (Công ước Viên 1980, PICC 1994, ICC No.421, Incoterms…) nhưng hẳn vào hợp đồng. muốn áp dụng khi tranh chấp thì các bên phải lựa chọn và ghi
Mấy ngày mất ăn mất ngủ, giám đốc TN có vẻ như đã tìm ra lối thoát là tìm cách thỏa thuận. Ông bèn viết thư đề nghị SY cùng có văn bản thỏa thuận chọn luật điều chỉnh hợp đồng là pháp luật Việt Nam và Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) là cơ quan có thẩm quyền xét xử tranh chấp! Hình như đối tác nước ngoài biết ý nên chờ mãi vẫn không thấy họ trả lời!
“Bệnh thì vái tứ phương”, giám đốc TN vẫn cứ gửi đơn đến VIAC kiện SY vi phạm hợp đồng và đòi bồi thường toàn bộ tổn thất. Trọng tài nhận hô sơ nhưng cho biết trước: nếu trọng tài gửi văn bản sang phía đối tác nước ngoài mà đối tác nước ngoài im lặng hoặc không chấp nhận thẩm quyền xét xử của VIAC thì cũng..không thể xét xử được! VIAC chỉ có thẩm quyền xét xử tranh chấp nếu hai bên có điều khoản chọn trọng tài hợp lệ.
Bạn bè thấy thương nên tư vấn: hay là TN nộp đơn kiện tại Tòa án Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh? Nhưng giám đốc TN lại phân vân. Giả sử tòa đồng ý thụ lý và xử TN thắng thì bản án của tòa án VN làm sao có thể cưỡng chế thi hành ở nước ngoài? Mất thêm tiền án phí, tiền luật sư, bỏ ra chi phí lớn mà không đòi được tiền thì chẳng khác gì “lấy tiền sống đi đòi tiền chết”! Sự việc dường như bế tắc và TN có thể phải gánh chịu tổn thất lớn!
Bình luận
Trong kinh doanh xuất nhập khẩu tại Việt Nam có những giao dịch trị giá đến hàng triệu USD, vậy mà bản hợp đồng mua bán chỉ đơn giản vài trang giấy mỏng teo.
Nhiều giám đốc khi bàn bạc hay ký hợp đồng với khách hàng nước ngoài chỉ quan tâm đến vài điều khoản họ cho là quan trọng như giá cả, số lượng, chất lượng, thời hạn giao hàng, thanh toán… Họ thường bỏ qua những điều khoản được coi là rườm rà, vô ích như sự kiện bất khả kháng, luật áp dụng, giải quyết tranh chấp… mà không biết rằng chính những khoản này đã gây ra những tổn thất đôi khi rất lớn.
Thật ra, bên gặp sự kiện bất khả kháng chỉ được miễn trách nhiệm trong trường hợp chứng minh được việc không thực hiện hợp đồng là do ngoài ý muốn, không thể lường trước và không thể tránh hoặc vượt qua được. Ngoài ra, cũng không phải họ đương nhiên được miễn trách nhiệm mà họ phải làm các bước: phải thông báo kịp thời (5-10 ngày) cho bên kia; phải cung cấp chứng cứ về sự kiện bất khả kháng và chứng cứ về tổn thất xảy ra, văn bản phải có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền sở tại (như Phòng Thương mại).
Phía gặp sự kiện bất khả kháng có thể đề nghị hoãn thời gian giao hàng hợp lý, nhưng không đương nhiên được hủy bỏ hợp đồng, họ phải thực hiện các biện pháp cần thiết để khắc phục và giới hạn tổn cho bên kia. Nếu sự kiện bất khả kháng kéo dài quá một thời hạn nhất định (quy định trong hợp đồng) mà không thể khắc phục được thì các bên có quyền chấm dứt hợp đồng.
Tuy nhiên những điều kiện về sự kiện bất khả kháng nêu trên không thể đương nhiên áp dụng nếu hai bên không có quy định trước trong hợp đồng. Phải chi khi ký hợp đồng mua bán với nước ngoài, TN quan tâm hơn một chút về các điều khoản… hay bị bỏ quên như điều khoản sự kiện bất khả kháng này thì nay đâu có chịu tổn thất lớn như vậy.
Một số vụ tranh chấp về bất khả kháng
(1) Một công ty Việt Nam báo gạo cho Phillippines. Tàu biển do người mua thuê đang trên đường đến Hải Phòng để nhận hàng thì người bán cho biết Thủ tướng Việt Nam đã quyết định dừng xuất khẩu gạo từ ngày 24/3/2020 để đảm bảo an ninh lương thực do Covid 19 nên không thể giao hàng cho tàu và coi đây là sự kiện bất khả kháng.
Người mua cho rằng người bán phải chịu một phần thiệt hại do tàu sắp đến cảng. Quan điểm của người bán là người mua chịu toàn bộ thiệt hại vì không có hàng cho tàu do bất khả kháng là đúng.
(2) Có Công ty logistics giao hàng trong thành phố lấy lý do nhân viên nghỉ việc vì Covid 19 để cho là bất khả kháng nên không thể thực hiện hợp đồng là chưa đủ căn cứ vì phải chứng minh đã thuê công ty khác làm mà vẫn không được hay chưa
(3) Hai công ty ký hợp đồng hàng đổi hàng. Theo đó, Công ty Thái Lan (TL) chở đường đến Việt Nam để nhận gạo từ Công ty Việt Nam (VN).
Theo hợp đồng, VN phải xin phép xuất khẩu gạo và nhập khẩu đường; TL phải xin giấy phép nhập khẩu gạo.
Mặc dù chưa xin được giấy phép xuất gạo, nhập đường nhưng VN vẫn đề nghị TL thuê tàu biển chở đường sang để lấy gạo về.
TL đã thuê tàu để chở đường từ cảng Bangkok của Thái Lan.
Tàu đã đến cảng, chờ khá lâu nhưng bất ngờ TL thông báo với người vận chuyển là không thu xếp được giấy phép nhập khẩu đường và coi đây là sự kiện bất khả kháng nên được miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người vận chuyển.
Người vận chuyển đã đúng khi cho rằng trường hợp này là bất khả kháng nhưng chỉ với hợp đồng đổi hàng giữa TL và VN, không là sự kiện bất khả kháng đối với hợp đồng vận chuyển đường giữa TL và người vận chuyển vì TL có thể “lường trước được” khả năng VN không xin được giấy phép nhập khẩu đường bằng cách yêu cầu VN cung cấp giấy phép này trước khi thuê tàu vận chuyển.
HP Toàn Cầu Tổng hợp và sắp xếp
Tài liệu tham khảo và sử dụng trong bài viết:
- Giáo trình Quản trị tác nghiệp thương mại quốc tế – Học viện Tài chính
- Giáo trình nghiệp vụ ngoại thương – Đại học Kinh tế Quốc dân
- Giáo trình thanh toán quốc tế – Đại học Ngoại thương
- Incoterms 2020 – Giải thích và hướng dẫn sử dụng – Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam
- Những điều cần biết về Incoterms 2020 trong hoạt động ngoại thương tại Việt nam – Trường đại học Ngoại thương
- Tài liệu đào tạo nghiệp vụ khai hải quan
- Nguồn gốc ra đời của Vận đơn và một số tranh chấp liên quan dịch vụ logistics – VLA
- Các văn bản pháp quy về thủ tục hải quan hiện hành
Công ty TNHH HP Toàn Cầu
Nhà cung cấp dịch vụ vận chuyển quốc tế, thủ tục hải quan và giấy phép xuất nhập khẩu
Địa chỉ: Số 13, LK3 – NO03 – Dọc Bún 1 – Khu đô thị Văn Khê – Phường La Khê – Quận Hà Đông – Hà Nội
Hotline: 08 8611 5726 / 0984870199 hoặc Điện thoại: 024 73008608
Email: info@hptoancau.com
Lưu ý:
– Nội dung bài viết mang tính chất tham khảo, trước khi sử dụng, bạn nên liên lạc HP Toàn Cầu để update nội dung cập nhật mới nhất(nếu có)
– HP Toàn Cầu giữ bản quyền với bài viết và không đồng ý đơn vị khác sao chép, sử dụng bài viết của HP Toàn Cầu vì mục đích thương mại
– Mọi sự sao chép không có thỏa thuận với HP Toàn Cầu (kể cả có ghi dẫn chiếu website hptoancau.com) có thể dẫn đến việc chúng tôi claim với google và các bên liên quan.